Phát triển kinh tế đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay

Đặt vấn đề

Phát triển kinh tế đối ngoại là một trong những định hướng lớn của nền kinh tế Việt Nam. Với nền tảng là một nước nông nghiệp lạc hậu, giải pháp để phát triển đất nước trong xu thế chung toàn cầu hóa chính là mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại thông qua tăng khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trong từng giai đoạn lịch sử, Việt Nam luôn thực hiện đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại linh hoạt, sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.

Từ thực tế đất nước và những thành tựu đạt được sau gần 35 năm đổi mới về kinh tế đối ngoại, Đại hội XII (năm 2016) của Đảng đã bổ sung và hoàn thiện quan điểm về kinh tế đối ngoại: “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp (DN) trong nước. Tăng cường liên kết giữa DN có vốn đầu tư nước ngoài với DN trong nước nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu”, thống nhất “sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Phát triển kinh tế đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay - Ảnh 1

Chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại đã đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, đưa nền kinh tế vượt qua ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, trở thành điểm sáng ở khu vực và trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại, thúc đẩy hội nhập quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tổng quan về kinh tế đối ngoại

Định nghĩa về kinh tế đối ngoại

Về mặt lý luận, kinh tế đối ngoại là một trong những bộ phận của nền kinh tế quốc gia, là tổng thể các quan hệ kinh tế, tài chính, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia này với các quốc gia khác, hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại được coi là một trong những khâu rất quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu cho nền kinh tế và trở thành động lực tăng trưởng cho kinh tế quốc gia.

Tuy nhiên, cần phân biệt sự khác nhau giữa kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế. Theo đó, kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế giữa hai hay nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế. Trong khi, kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế của một nước với một hoặc nhiều quốc gia khác. 

Vai trò của kinh tế đối ngoại

Trước xu thế mới của thời đại, kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế toàn cầu, cũng như tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Có thể chỉ ra một số vai trò cơ bản của kinh tế đối ngoại như sau:

– Góp phần đẩy mạnh quá trình đổi mới và mở cửa hội nhập quốc tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh, nội lực của nền kinh tế, hỗ trợ nâng cao vị thế về chính trị, ngoại giao của một quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

– Góp phần thúc đẩy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) nhằm cung ứng nguồn lực cho sự phát triển kinh tế đất nước. Thông qua kinh tế đối ngoại, Chính phủ tăng cường hoàn thiện pháp luật, chính sách đầu tư, kết cấu hạ tầng kinh tế… nhằm tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các quốc gia, các tổ chức quốc tế.

– Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Cụ thể, kinh tế đối ngoại tạo ra nhiều ngành nghề sản xuất mới, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và đóng góp tăng trưởng kinh tế tại các địa phương, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh.

– Góp phần tích lũy nguồn lực thúc đẩy phát triển đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Nhờ nguồn vốn FDI, FII và ODA, tình trạng thiếu vốn của các nước đang phát triển được điều hòa, các DN hoạt động hiệu quả, đóng góp quan trọng cho nguồn thu ngân sách thông qua nộp thuế.

– Góp phần thúc đẩy xuất khẩu lao động, thu hút khách du lịch nước ngoài mang lại lợi ích trước mắt và lâu dài. Tại Việt Nam, điều này được minh chứng rõ ràng khi Việt Nam đẩy mạnh kinh tế đối ngoại nói riêng và kinh tế tế quốc tế nói chung, đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ra thị trường quốc tế, tăng trưởng mạnh mẽ, kể cả giai đoạn khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu và bùng phát dịch bệnh COVID-19.

– Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. Đây cũng là phương thức hữu hiệu và cầu nối quan trọng để đưa hàng hóa của các quốc gia thâm nhập vào thị trường nước ngoài; là điều kiện quan trọng để quốc gia tiếp cận và hợp tác với nhiều quốc gia khác, các tổ chức khu vực và quốc tế, các trung tâm kinh tế, công nghệ thế giới…

– Góp phần giúp tiếp cận nền tảng công nghệ hiện đại, cách thức quản lý nền kinh tế và quản trị quốc gia một cách chuyên nghiệp. Thông qua kinh tế đối ngoại, các nước đang phát triển như Việt Nam có điều kiện tiếp cận với nền khoa học, công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý kinh tế hiện đại, từng bước nâng cao trình độ của lực lượng lao động trong nước.

Thực trạng phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam

Thành tựu nổi bật

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Việt Nam luôn thực hiện đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại linh hoạt, sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Trong giai đoạn đấu tranh và bảo vệ tổ quốc (1945-1986), kinh tế đối ngoại chủ yếu diễn ra trong khối các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần viện trợ dựa theo nguyên tắc hàng đổi hàng; quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa, các nước không thuộc khối xã hội chủ nghĩa rất hạn chế do ý thức hệ và chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây.

Bước sang thời kỳ đổi mới (năm 1986), Việt Nam thực hiện đổi mới toàn diện, trước hết thực hiện đổi mới về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, xác định rõ hơn vai trò và vị trí quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế quốc dân. Ngay từ những năm đầu thực hiện “đổi mới” và “mở cửa”, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khẳng định, xuất khẩu là mũi nhọn, có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong giai đoạn 1986-1990, đồng thời là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong giai đoạn này, Việt Nam chủ trương hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài; thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, mở rộng, nâng cao hiệu quả đối ngoại, đẩy mạnh công tác đổi mới chính sách và cơ chế xuất, nhập khẩu để phát triển kinh tế đất nước.

Chủ trương mới về kinh tế đối ngoại của Đảng là cơ sở quan trọng cho những chính sách kinh tế giai đoạn tiếp theo và giúp Việt Nam đạt được những kết quả quan trọng. Trong 20 năm đầu (1986-2006), bước đầu hình thành các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu, xuất hiện hai mặt hàng xuất khẩu quan trọng làm thay đổi đáng kể cán cân thương mại là dầu thô và gạo. Từ năm 1989, Việt Nam thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam được mở rộng với nhiều nước trên thế giới. Tính đến cuối thập niên 1990, Việt Nam có quan hệ kinh tế và thương mại với 140 quốc gia; có tới gần 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam; hoạt động xuất, nhập khẩu tăng lên đáng kể, đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu lương thực; tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần từ 13,3% năm 2000 lên 13,8% năm 2001, 16% năm 2005, 17,1% năm 2006; hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ đạt được nhiều thành tựu nổi bật…

Nhất quán chủ trương đẩy mạnh kinh tế đối ngoại nói riêng và kinh tế quốc tế nói chung, đồng thời linh hoạt, chủ động trong từng giai đoạn, đặc biệt từ năm 2006 (năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới) đến nay, Việt Nam tiếp tục khẳng định được vị thế trên chính trường và thị trường quốc tế. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 189 nước (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 13 đối tác chiến lược, 14 đối tác toàn diện) và có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn trên thế giới, có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu, có quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác khác với các nước và tổ chức quốc tế. Việt Nam cũng chủ động tham gia định hình các khuôn khổ, nguyên tắc hợp tác và đóng góp có trách nhiệm tại Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, APEC…

Đặc biệt, đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập từ bên ngoài: Mỹ bỏ cấm vận (năm 1994) và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (năm 1995), Việt Nam gia nhập ASEAN (năm 1995), tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (năm 1998), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (năm 2006), gia nhập hàng loạt các FTA với các đối tác lớn… Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tăng cường hợp tác, đối thoại chiến lược và đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ Tổ quốc.

Việc mở rộng hợp tác quốc tế đã tạo đà cho kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến ngày 20/9/2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 403,2 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. Hiện có 141 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam.

Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc, với tổng vốn đăng ký gần 73,8 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư); Nhật Bản đứng thứ hai, với gần 63,9 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư)… Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 238,2 tỷ USD, chiếm 59,1% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 61,3 tỷ USD (chiếm 15,2% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với trên 33,9 tỷ USD (chiếm 8,4% tổng vốn đầu tư).

Bên cạnh đó, hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập được vào nhiều thị trường đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, an toàn thực phẩm như: Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Mỹ, Australia… Xuất khẩu tăng trưởng mạnh, bình quân giai đoạn 2006-2019 đạt 16,7% từ 39,8 tỷ USD năm 2006 lên 264,2 tỷ USD năm 2019, trong khi nhập khẩu tăng 15,4% từ 44,9 tỷ USD năm 2006 lên 253,1 tỷ USD năm 2019.

Theo Tổng cục Thống kê, mặc dù đại dịch COVID-19 bùng phát từ, song cả năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vẫn đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019. Thậm chí, năm 2020 còn có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó, 24 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD.

Năm 2021, dù dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, thời gian giãn cách xã hội áp dụng tại nhiều tại các tỉnh, thành phố lớn của cả nước, song tình hình xuất nhập khẩu ghi nhận nhiều điểm sáng. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, đến hết ngày 15/9/2021, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt gần 454.58 tỷ USD. Trong đó, tổng trị giá xuất khẩu đạt gần 225,2 tỷ USD, tăng 19,8% tương ứng tăng 37,15 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2020; tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 229,38 tỷ USD, tăng 32,2% (tương ứng tăng 55,92 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2020. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ trong những năm qua, đặc biệt của các DN FDI đã góp phần cải thiện đáng kể cán cân thương mại của Việt Nam, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước về một môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi. Vốn ODA cung cấp cho Việt Nam tăng mạnh qua các giai đoạn, từ 1993 – 2015 vốn cam kết đạt 91,1 tỷ USD, vốn giải ngân đạt 58 tỷ USD (63,7%).

Kinh tế đối ngoại cũng đã góp phần tích cực vào việc đưa Việt Nam từ quốc gia đói nghèo trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực lớn nhất thế giới, có mức thu nhập trung bình và luôn đạt mức tăng trưởng kinh tế. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006-2019 của Việt Nam đạt 6,26% (bình quân thế giới là 3,69%), quy mô GDP từ 66,4 tỷ USD năm 2006 tăng lên 261,6 tỷ USD năm 2019, GDP theo đầu người từ 797 USD năm 2006 tăng lên 1.154 USD năm 2008, đưa Việt Nam bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình, năm 2019 đạt 2.740 USD. Đặc biệt, kể từ năm 2020, đại dịch COVID-19 bùng phát, khiến hầu hết các nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế tăng trưởng âm, nhưng Việt Nam vẫn là một trong ba quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế dương, (+2,91%) năm 2020.

Một số tồn tại, hạn chế

Sau gần 35 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế đối ngoại Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:

– Nhận thức của một bộ phận cán bộ về kinh tế đối ngoại nói riêng và kinh tế quốc tế nói chung vẫn còn hạn chế. Trong đó, sự chuyển biến về nhận thức và hành động ở các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài chưa thật sự đồng đều, toàn diện…

– Công tác phổ biến thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thật sâu rộng ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương và cả trong cộng đồng DN. Việc cung cấp thông tin tham mưu chiến lược về tình hình kinh tế thế giới, về đối tác, thị trường trong thời gian qua đã được tăng cường, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh mới… Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo tình hình chưa cao, các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu.

– Hiệu quả hợp tác chưa được như kỳ vọng, ngoại giao đa phương chưa phát huy hết các lợi thế, chưa tận dụng tốt các cơ hội để kinh tế nước ta hội nhập quốc tế nhanh và sâu hơn. công tác quảng bá hình ảnh đất nước, hỗ trợ xúc tiến kinh tế đối ngoại chưa ngang tầm với tiềm năng quan hệ giữa Việt Nam và đối tác. Về mặt chính sách, Việt Nam đang thiếu một Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tăng cường hiệu quả và tính chủ động trong phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.

– Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục được nâng cao năng lực và trang bị những kỹ năng cần thiết, nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật kinh tế quốc tế, kỹ năng thương lượng, đàm phán, vận động… Đội ngũ các DN hoạt động kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam vẫn chủ yếu là các công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, không đa dạng hóa các hoạt động… khiến lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế thua kém các công ty xuyên quốc gia của các quốc gia khác.

Giải pháp thúc đẩy kinh tế đối ngoại trong bối cảnh mới

Theo Elias G. Hadjikoumis (2021), sự bùng phát của đại dịch COVID-19 đang trở thành thách thức lớn nhất hiện nay của toàn cầu, khiến một số vấn đề kinh tế trở nên trầm trọng, đặc biệt là sự suy giảm trong xu hướng toàn cầu hóa và thương mại tự do, xuất hiện thái độ bảo hộ với thương mại quốc tế và sự gián đoạn của chuỗi cung ứng. Nếu như trước đây, chuỗi cung ứng kịp thời được coi là phương pháp hiệu quả nhất thì trong tương lai gần, nhiều quốc gia lựa chọn phát triển các chuỗi cung ứng phù hợp với mục đích phục hồi kinh tế.

Điển hình là trong đại dịch COVID-19, việc dựa vào hàng công nghiệp của Trung Quốc có thể gây tổn hại khả năng phục hồi kinh tế của Mỹ, nên nước này đã khuyến khích các DN Mỹ rút khỏi Trung Quốc hoặc chuyển sang các quốc gia khác. Nhật Bản đã dành một quỹ trị giá 2,2 tỷ USD để hỗ trợ các công ty của nước này chuyển cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang Đông Nam Á. EU đóng vai trò quan trọng trong ngoại giao kinh tế đối với 28 quốc gia thành viên, nhưng mỗi quốc gia đều có chiến lược ngoại giao kinh tế độc lập riêng, vì lợi ích cụ thể của một quốc gia có thể không phù hợp với lợi ích của EU.

Sự kiện Brexit là một minh chứng cụ thể về tầm quan trọng của việc mỗi quốc gia cần có chiến lược ngoại giao kinh tế độc lập. Dưới tác động của toàn cầu hoá, các quốc gia phải điều chỉnh lại chính sách và chiến lược kinh tế đối ngoại của mình đối với các quốc gia khác nhằm thúc đẩy lợi ích của quốc gia. Trong bối cảnh đó, thúc đầy phát triển kinh tế đối ngoại trong bối cảnh mới, Việt Nam cần chú trọng các giải pháp trọng tâm sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho các cơ quan, đội ngũ cán bộ liên quan đến kinh tế đối ngoại và cộng động DN về chiến lược kinh tế đối ngoại, đặc biệt là về những diễn biến mới, thách thức mới và các cách thức ứng phó như: Bảo hộ với thương mại quốc tế, đứt gãy chuối cung ứng, các biện pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá…

Hai là, tiếp tục sửa đổi và ban hành các quy định pháp luật phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại, phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Theo các chuyên gia kinh tế, mức độ tín nhiệm của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng đảm bảo rằng, hệ thống luật pháp của quốc gia đó đối với các hoạt động kinh tế phải minh bạch, rõ ràng, tuân theo các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam cần có chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả và tính chủ động trong phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.

Ba là, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường nhỏ và thị trường ngách; đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu. Điều này càng phải được đẩy mạnh hơn trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang tác động đến hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.

Bốn là, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng để mở rộng kinh tế đối ngoại: Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, các trung tâm logistics… Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới; cung cấp, cập nhật thông tin về thị trường, cơ chế, chính sách biên mậu của nước láng giềng; hướng các DN xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính để đảm bảo ổn định và phòng tránh được những rủi ro hoạt động thương mại biên giới.

Năm là, đổi mới cơ cấu nhập khẩu theo hướng gia tăng nhập khẩu bằng phát minh sáng chế, các công nghệ mới…; chú trọng nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển kinh tế đối ngoại, trước mắt như: Các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ cung ứng vốn, các dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ viễn thông; tăng tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo hộ.

Sáu là, nghiên cứu rà soát các chính sách hỗ trợ cho DN tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại. Cụ thể, rà soát, điều chỉnh các chính sách về thu hút đầu tư nhằm thu hút mạnh đầu tư trong nước và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, rà soát và ưu tiên tín dụng cho các DN có năng lực xuất khẩu. Về mặt vĩ mô, chủ động điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cân đối hài hòa giữa yêu cầu xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu.

Bảy là, tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu; phát triển hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và tiềm năng; Tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài trong việc hỗ trợ tìm kiếm thị trường, chính sách của quốc gia sở tại, cũng như tăng cường bảo vệ hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới…

Tám là, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại. Trong thời gian tới, tiếp tục cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế, kỹ thuật đàm phán quốc tế và luật pháp quốc tế. Tăng cường đầu tư cho các trường đại học đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại…

Kết luận

Sau gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế đối ngoại nước ta đã phát triển nhanh và mạnh, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và tạo đà phát triển trong giai đoạn mới. Chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại đúng đắn đã đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đưa kinh tế nước ta vượt qua tác động của các cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, tiếp tục phát triển, trở thành điểm sáng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến động mới, đặc biệt là tác động của đại dịch COVID-19, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp trên nhằm thúc đẩy, phát triển kinh tế đối ngoại hiệu quả trong thời gian tới.    

Tài liệu tham khảo:

1. Cao Anh Dũng (2020), Đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế. Tạp chí Cộng sản tháng 6/2021;

2. Nguyễn Văn Du, Nguyễn Thị Thúy (2021), Hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Xây dựng Đảng số 12/2020;

3. Võ Đại Lược (2021), Kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay: Tình hình và các giải pháp, Tạp chí Thời đại;

4. Vũ Mạnh Hà (2020), Phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế, Trường Chính trị Thái Nguyên;

5. Elias G. Hadjikoumis (2021), Ngoại giao kinh tế trong kỷ nguyên mới, Báo Thế giới và Việt Nam, Link truy cập: https://baoquocte.vn/ngoai-giao-kinh-te-trong-ky-nguyen-moi-153124.html.

(*) ThS. Nguyễn Thị Ngát, ThS. Lê Thị Thu Hà, Th.S Bùi Thị Thanh Huyền- Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh

(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 1 tháng 10/2021.