Pháp luật về ứng phó biến đổi khí hậu theo các quy định hiện hành

Vấn đề khí hậu đang diễn ra ngày một nghiêm trọng trên toàn thế , cho nên việc biên soạn và ban hành Luật BĐKH và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hệ thống chính sách, quy phạm về ứng phó biến đổi khí hậu càng quan trọng và cấp thiết.

1. Khái niệm

Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và (hoặc) dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.

Điều 1 Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu: Biến đổi khí  nghĩa là thay đổi của khí hậu do hoạt động của con người (trực tiếp hoặc gián tiếp) làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và sự thay đổi  này cộng thêm vào khả năng biến động tự nhiên của khí hậu quan sát được trong những thời kỳ có thể so sánh được.

Ứng phó với biến đổi khí hậu là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Thích ứng là quá trình qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khỏe, đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại.

Giảm thiểu biến đổi khí hậu là các hoạt động để hạn chế cường độ hoặc tỷ lệ dài hạn biến đổi khí hậu. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu liên quan đến việc cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính của con người.

Ứng phó biến đổi khí hậu liên quan đến nhiều lĩnh vực, ở Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa xây dựng một luật riêng về ứng phó biến đổi khí hậu trên cơ sở tích hợp tất cả nội dung về ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên nhiều nội dung được quy định tại một số luật chuyên ngành như Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Đa dạng sinh học,…

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 dành chương IV với 11 điều quy định về ứng phó biến đổi khí hậu. Nhận thức rõ tác động của biến đổi khí hậu, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng và phát triển nhiều chính sách, pháp luật liên quan đến biến đổi khí hậu được ban hành trong các lĩnh vực tài nguyên, sinh học, nông lâm nghiệp, môi trường xây dựng, thủy lợi, giao thông, năng lượng, công nghiệp, y tế… một số văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp liên quan đến biến đổi khí hậu được ban hành như: Chỉ thị 35 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (năm 2005); Nghị quyết số 60 của Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu (năm 2008), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (năm 2011), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh năm 2012, và Luật bảo vệ môi trường năm 2014.

2. Quy định của pháp luật về ứng phó biến đổi khí hậu

Để ứng phó với biến đổi khí hậu, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định mọi hoạt động bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với ứng phó biến đổi khí hậu. Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật. Các bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng, triển khai thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu thuộc phạm vi quản lý của mình. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Chính phủ xây dựng, tổ chức thực hiện, hướng dẫn các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Quyền: Pháp luật quy định cộng đồng có quyền được cung cấp và yêu cầu cung cấp thông tin về biến đổi khí hậu, trừ các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước.

Nghĩa vụ: Cộng đồng có trách nhiệm tham gia các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Cơ quan quản lý về biến đổi khí hậu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tổ chức các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng tham gia các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu.

2.1. Quy định về quản lý phát thải khí nhà kính

Một trong những nội dung quan trọng trong ứng phó với biến đổi khí hậu là quản lý phát thải khí nhà kính để thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và cùng với cộng đồng quốc tế nỗ lực giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

Nội dung quản lý phát thải khí nhà kính bao gồm:

“a)  Xây dựng hệ thống quốc gia về kiểm kê khí thải nhà kính;

b) Thực hiện các hoạt động giảm nhẹ khí thải nhà kính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội;

c) Quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các-bon rừng, bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái;

d) Kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính;

đ) Hình thành và phát triển thị trường tín chỉ các-bon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ các-bon thế giới;

e) Hợp tác quốc tế về giảm nhẹ khí nhà kính.”

Pháp luật quy định Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì, phối hợp với bộ, ngành có liên quan tổ chức kiểm kê khí nhà kính, xây dựng báo cáo quốc gia về quản lý phát thải khí nhà kính phù hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ ngĩa Việt Nam là thành viên.

2.2. Quy định về quản lý các chất làm suy giảm tầng ozon

“1. Ưu tiên xây dựng, thực hiện chính sách, kế hoạch quản lý, giảm thiểu, loại bỏ các chất làm suy giảm tầng ozon

2.Cấm sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất và tiêu thụ các chất làm suy giảm tầng ozon theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

2.3. Quy định về phát triển nguồn năng lượng tái tạo

Năng lượng tái tạo là nguồn cung cấp năng lượng có thể tái sinh như các vật chất sinh khối ( gỗ, củi, trấu, bã mía, chất thải có nguồn gốc động thực vật), khí sinh học, nhiên liệu sinh học, sức nước, sức nóng mặt trời, địa nhiệt, gió, sóng và thủy triều…

Để góp phần phát triển năng lượng tái tạo, luật khuyến khích sản xuất, nhập khẩu, sử dụng máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông dùng năng lượng tái tạo.

2.4. Quy định về sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường

Việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thân thiện với môi trường là một xu thế ngày càng phát triển trong thương mại quốc tế và mua sắm trong lĩnh vực công tại các nước đang phát triển. Do đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định: 

“1. Cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm tham gia sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường.

2.Người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước có trách nhiệm ưu tiên sử dụng sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường được chứng nhận nhãn sinh thái theo quy định của pháp luật.

3.Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với cơ quan thông tin truyền thông giới thiệu, quảng bá về sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường.”

2.5. Quy định về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu

Với tinh thần lấy khoa học, công nghệ làm nội dung trọng tâm để thích ứng với biến đổi khí hậu. Luật quy định các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện hoặc tham gia hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, ưu tiên đối với công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ về ứng phó với biến đổi khí hậu.

Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ về ứng phó với biến đổi khí hậu được ưu tiên gồm:

“a)Phát triển ngành và liên ngành khoa học về quản lý, đánh giá, giám sát và dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với phát triển kinh tế- xã hội, môi trường, sức khỏe cộng đồng;

b) Hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ hiện đại trong giảm nhẹ khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường sức cạnh tranh của các ngành kinh tế, sản xuất trọng điểm, phát triển nền kinh tế các-bon thấp và tăng trưởng xanh.”

2.. Xử lý vi phạm pháp luật trong ứng phó biến đổi khí hậu

Xử lý vi phạm pháp luật trong ứng phó biến đổi khí hậu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng trách nhiệm pháp lý cho các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về ứng phó biến đổi khí hậu.

Chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong ứng phó biến đổi  khí hậu rất đa dạng. Bao gồm cả cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội.

a, Xử lý vi phạm hành chính:

Được quy định tại Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Chủ thể vi phạm bị áp dụng một trong các biện pháp xử phạt chính sau: Phạt cảnh cáo và phạt tiền (phạt tiền tối đa 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức)

Bên cạnh biện pháp xử phạt hành chính, chủ thể còn có thể bị áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn (Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép đình chỉ hoạt động tối thiểu là 01 tháng, tối đa là 24 tháng); Đình chỉ hoạt động được coi là biện pháp thay thế biện pháp tước quyền sử dụng giấy phép, hai biện pháp này không áp dụng đồng thời đối với một hành vi vi phạm; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.

Đây là biện pháp cưỡng chế, đưa vào quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm.

Ngoài ra, còn có các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tháo dỡ hoặc di dời; Buộc tiêu hủy; Buộc thu hồi, xử lý; Buộc nộp lại một số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm; Buộc thực hiện biện pháp quản lý chất thải, xử lý chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; buộc lập hồ sơ báo cáo kết quả hoàn thành công trình bảo vệ môi trường trình cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình; Buộc xây lắp, vận hành đúng quy định đối với công trình bảo vệ môi trường theo quy định; Buộc di dời; Buộc truy thu phí bảo vệ môi trường.

Căn cứ từ Điều 48 đến Điều 53 của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong ứng phó biến đổi khí hậu: Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được trao chủ yếu cho Chủ tịch UBND các cấp, CAND, Thanh tra chuyên ngành. Ngoài ra, một số chủ thể khác cũng có thẩm quyền nhưng bị hạn chế hơn: Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường, Thuế, Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ đường thủy nội địa.

b, Xử lý vi phạm kỷ luật nhà nước

Chủ thể bị xử lý vi phạm kỷ luật nhà nước là các chủ thể đặc biệt đó là những người có chức vụ, quyền hạn theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014. 

Tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp gây thiệt hại còn phải bồi thường theo quy định của pháp luật.