Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: Thực trạng và một số khuyến nghị

TÓM TẮT:

Với một nước nông nghiệp như Việt Nam
thì vấn đề đất đai nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Đặc
biệt khi đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đất đai ngày càng trở nên có
giá trị và được đem ra trao đổi trên thị trường, dùng làm tài sản bảo đảm trong
quan hệ tín dụng với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhà đầu tư góp vốn vào
doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc
gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Chính vì tầm quan trọng đó nên
Nhà nước đã quy định đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Từ khóa: Thu hồi đất, pháp luật, Nhà
nước.

1. Cơ sở lý luận về thu hồi đất, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất

1.1. Khái niệm thu hồi đất

Theo khoản 11 điều 3 Luật Đất đai 2013
thì: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng
đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người
sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.

1.2. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và
phát triển, Điều 3. Theo nghĩa thông thường, hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm
vào, nhìn chung đó là các quy định và các chính sách của Nhà nước nhằm thể hiện
sự nhân đạo, biểu hiện bản chất của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta nhằm
hỗ trợ, chia sẻ khó khăn của người dân bị thu hồi đất, thông qua việc đào tạo
nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới… giúp đỡ
một phần nào rủi ro mà họ phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời
giúp cho người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất và kinh
doanh.

1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất

Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt mối
quan hệ pháp luật đất đai (làm chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà còn liên quan đến lợi ích hợp pháp của các
bên có liên quan: Lợi ích của người bị thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của
xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu hồi đất (các nhà đầu tư, doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân…). Do vậy trên thực tế việc giải quyết hậu
quả của việc thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt
vấn đề hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều
phương diện.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tại hội thảo “Nông dân bị thu hồi đất – Thực trạng và giải
pháp”, cho thấy: Trong 5 năm, từ năm 2001 – 2005, tổng diện tích đất nông
nghiệp đã thu hồi là 366,44 nghìn ha (chiếm 3,89% đất nông nghiệp đang sử
dụng), trong đó diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi để xây dụng các khu công
nghiệp và cụm công nghiệp là 39,56 nghìn ha, xây dựng đô thị là 70,32 nghìn ha
và xây dựng kết cấu hạ tầng là 136,17 nghìn ha; theo thống kê cho đến tháng
8/2010, Việt Nam có 254 khu công nghiệp với tổng diện tích 68.800 ha và 15 khu
kinh tế với tổng diện tích 627.623 ha. Việc thu hồi đất này đã tác động đến gần
627.495 hộ gia đình với khoảng 950.000 lao động và ảnh hưởng đến đời sống
khoảng hơn 2,5 triệu người. Thực tế cho thấy, do mất đất sản xuất, mất nơi định
cư đã làm cho người bị thu hồi đất không có nghề nghiệp ổn định, mất đi nơi sản
xuất kinh doanh sau khi bị thu hồi đất. Như chúng ta đã biết: Quyền sử dụng đất
được pháp luật bảo hộ và xuất phát từ tuyên bố Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Điều 2 [3], cùng với
các quyền công dân khác được Hiến pháp ghi nhận: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ
hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội,
có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người
có hoàn cảnh khó khăn khác. Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều
kiện để mọi người có chỗ ở” [37, tr. 16]. Vì vậy, Nhà nước luôn có chính sách
về xóa đói, giảm nghèo, chăm lo cho người dân có nơi ở, nơi sản xuất mới tốt
hơn so với trước khi bị thu hồi đất. Mục tiêu tạo điều kiện cho người bị thu
hồi đất ổn định cuộc sống, sản xuất và tạo việc làm.

1.3.1. Về phương diện chính trị

Là một nước nông nghiệp với khoảng 70%
dân số là nông dân, vấn đề đất đai ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
nhạy cảm. Các chính sách, pháp luật về đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn
định về chính trị. Điều này có nghĩa là nếu chủ trương, chính sách pháp luật
đất đai đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và được thực thi nghiêm túc sẽ góp phần
vào việc duy trì và củng cố sự ổn định chính trị. Ngược lại, sẽ làm phát sinh
những điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về chính trị. Một trong các
chính sách, pháp luật về đất đai được xã hội quan tâm đó là chính sách, pháp
luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; bởi lẽ mảng chính sách, pháp luật này
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất.
Trong trường hợp bị thu hồi đất quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
trực tiếp bị xâm hại. Họ không chỉ mất quyền sử dụng đất mà còn buộc phải di
chuyển chỗ ở. Hậu quả là cuộc sống thường nhật của họ bị đảo lộn. Với quan niệm
truyền thống của người Việt Nam có an cư mới lạc nghiệp thì việc bị mất đất
đai, nhà cửa thực sự ảnh hưởng rất lớn đối với người bị thu hồi đất. Do vậy, họ
phản ứng rất gay gắt, quyết liệt thông qua việc khiếu nại đông người, khiếu
kiện vượt cấp, kéo dài nếu không được Nhà nước hỗ trợ thỏa đáng. Các khiếu kiện
về đất đai nói chung là khiếu khiện về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói
riêng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị và dễ phát sinh thành các điểm
nóng; cho nên việc giải quyết tốt vấn đề hỗ trợ là thực hiện tốt chính sách an
dân để phát triển kinh tế xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố về sự ổn
định của chính trị.

1.3.2. Về phương diện kinh tế – xã hội

Thực tiễn cho thấy, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất luôn là công việc khó khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai
thực hiện theo tiến độ đề ra có nguyên nhân do công tác hỗ trợ không nhận được
sự đồng thuận từ phía người bị Nhà nước thu hồi đất. Xét dưới góc độ kinh tế,
dự án chậm triển khai thực hiện ngày nào là chủ đầu tư, các doanh nghiệp bị
thiệt hại đáng kể về lợi ích kinh tế do máy móc, vật tư, thiết bị không đưa vào
hoạt động được, người lao động không có việc làm trong khi doanh nghiệp vẫn
phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường xuyên và trả lãi xuất
vay vốn từ ngân hàng… Vì vậy, thực hiện tốt công tác hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là điều kiện để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu
tư góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Để duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, góp phần vào cuộc xóa đói, giảm nghèo và tạo tiền đề cho các bước phát
triển tiếp theo. Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt vấn đề hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất sẽ giúp cho người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định cuộc sống
để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa điều này
giúp củng cố niềm tin của người bị thu hồi đất vào đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời loại trừ cơ hội để kẻ xấu
lợi dụng, tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện
nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an toàn xã hội và làm đình trệ sản xuất.

2. Điểm mới của Luật Đất đai năm 2013

Ngày 29/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc
hội khóa XIII đã thông qua Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/7/2014
thay thế Luật Đất đai năm 2003, trong đó quy định sửa đổi, bổ sung về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể hóa các quy định
này, ngày 15/5/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đến ngày
30/6/2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông Tư số 37/2014/TT-BTNMT
quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13/8/2014.

2.1. Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời
sống

Tại điểm a khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai
và Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa và bổ sung so với Nghị
định số 69/2009/NĐ-CP như sau:

– Hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc cho
người lao động không quá 06 tháng khi chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh bị thu hồi
đất dẫn đến ngừng lao động.

– Nếu được bồi thường bằng đất nông
nghiệp thì được hỗ trợ: Giống cây trồng, giống vật nuôi cho vụ sản xuất nông
nghiệp đầu tiên, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật,
thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất,
kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp.

Chính sách hỗ trợ ổn định đời sống và
sản xuất qua các thời kỳ có nhiều thay đổi khác nhau theo hướng tăng thêm quyền
lợi cho người bị thu hồi đất và mở rộng phạm vi áp dụng. Nghị định số
47/2014/NĐ-CP không đưa chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất đối với hộ
nghèo.

2.2. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và
tạo việc làm

Tại điểm b khoản 2 Điều 83 Luật Đất
đai; Điều 20 và Điều 21 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa và bổ sung
so với Nghị định số 69/2009/NĐ-CP như sau:

– Mức hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần
giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất của địa phương.

– Trường hợp thu hồi đất ở kết hợp kinh
doanh, dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013.

Nghị định số 47/2014/NĐ-CP đã bỏ khung
hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 đến 5 lần quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP mà
chỉ quy định mức trần không quá 5 lần, mức cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định cho phù hợp với thực tế địa phương.

2.3. Hỗ trợ tái định cư

Tại Điều 79, điểm c khoản 2 Điều 83,
Điều 85 Luật Đất đai; Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa Nghị
định số 69/2009/NĐ-CP về điều kiện tái định cư phải có đất bị thu hồi và phải
di chuyển chỗ ở, tái định cư bằng hình thức nhà ở, đất ở tại khu tái định cư
hoặc nhận tiền hỗ trợ để tự lo chỗ ở.

Hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở, nhà ở
tái định cư mà số tiền được bồi thường về đất nhỏ hơn giá trị một suất tái định
cư tối thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch giữa giá trị suất tái định cư tối
thiểu và số tiền được bồi thường về đất.

2.4. Hỗ trợ đối với người đang sử dụng
nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước

Tại Điều 14 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
giữ nguyên quy định tại Điều 21 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP.

Như vậy, người đang sử dụng nhà ở hợp
pháp thuộc sở hữu Nhà nước không được bồi thường về nhà, đất; được bồi thường
chi phí tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp nhà ở; không được giải quyết tái định cư
mà chỉ được thuê nhà tại khu tái định cư.

2.5. Hỗ trợ người đang thuê nhà ở không
thuộc sở hữu Nhà nước

Tại Điều 23 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
kế thừa Nghị định số 197/2004/NĐ-CP với quy định: Hộ gia đình, cá nhân đang
thuê nhà ở không phải là nhà ở thuộc sở hữu nhà nước khi Nhà nước thu hồi đất
mà phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ chi phí di chuyển tài sản theo quy định
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

2.6. Đối với hai khoản hỗ trợ là hỗ trợ
di chuyển và hỗ trợ sản xuất và đời sống tại khu tái định cư

Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa quy định về loại hỗ trợ này.

2.7. Hỗ trợ đất nông nghiệp bị thu hồi

Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa quy định về loại hỗ trợ này. Trước đây trong dự thảo
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP có đưa loại hỗ trợ này vào mục “hỗ trợ khác”, nhưng
khi ban hành thì loại bỏ nội dung này.

Như vậy hỗ trợ đất nông nghiệp trong
khu dân cư lần đầu tiên được quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP với mức
hỗ trợ từ 20% đến 50% giá đất ở, diện tích được hỗ trợ là toàn bộ diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương.
Đến Nghị định số 84/2007/NĐ-CP quy định thêm đối tượng hỗ trợ đối với đất vườn,
ao trong cùng thửa đất có nhà ở với diện tích đất nông nghiệp được hỗ trợ không
quá 5 lần hạn mức đất ở địa phương. Sang Nghị định số 69/2007/NĐ-CP giới hạn
diện tích đất nông nghiệp được hỗ trợ không quá 5 lần hạn mức đất ở tại địa
phương.

2.8. Hỗ trợ khác

Tại điểm d khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai
và Điều 25 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa những quy định tại Điều
23 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP với mục đích: Bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống
và sản xuất, công bằng đối với người bị thu hồi đất; trường hợp đất nhận chuyển
quyền vượt hạn mức mà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc không đủ điều kiện bồi thường thì
được xem xét hỗ trợ.

3. Một số khuyến nghị hoàn thiện pháp
luật

Pháp luật cần quy định một mức áp dụng
như đối với đất thuộc địa bàn các phường mức hỗ trợ là 5 lần giá đất nông
nghiệp cùng loại; đất thuộc địa bàn các thị trấn mức hỗ trợ là 4,5 lần giá đất
nông nghiệp cùng loại và đất thuộc địa bàn các xã mức hỗ trợ là 4 lần giá đất
nông nghiệp cùng loại. Lý do, làm cho việc hỗ trợ cho người bị thu hồi đất được
công bằng, đồng đều, tránh sự chênh lệch về mức hỗ trợ của các tỉnh, thành như
hiện nay. Nhằm giảm bớt tình trạng so bì giữa người bị thu hồi đất ở các tỉnh,
thành khác nhau. Xem xét điều chỉnh quy định về giá đất nông nghiệp cho phù hợp
với giá trên thực tế để chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm cho
người bị thu hồi đất nông nghiệp thực hiện có hiệu quả hơn.

– Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu
hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 83 của Luật Đất đai.

– Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định cơ chế, chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho các nhân khẩu
trong độ tuổi lao động hiện có của hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi.

– Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ chính
sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định
và điều kiện thực tế tại địa phương quy định mức hỗ trợ cụ thể cho phù hợp đối
với từng loại hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi.

– Pháp luật cần quy định bổ sung mức cụ
thể là 50% khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển cộng đồng dân cư, làm ảnh
hưởng đến đời sống, kinh tế – xã hội, truyền thống văn hóa của cộng đồng. Do
việc quy định có mức sàn thì dễ thực hiện và cũng có được cơ sở để áp dụng đúng
pháp luật, tạo quyền lợi cho người bị thu hồi đất.

– Pháp luật quy định bổ sung chính sách
hỗ trợ về tài sản đối với người bị thu hồi đất trong trường hợp Nhà nước thu
hồi đất như đã nêu trên. Vì người bị thu hồi đất đã gặp rất nhiều khó khăn nên
họ cần có được một khoản chi phí hỗ trợ thêm ổn định đời sống, phục vụ di
chuyển. Đây cũng có thể là động lực để thúc đẩy họ sớm bàn giao mặt bằng, tạo
sự hài lòng của tất cả các bên.

– Pháp luật nên quy định liệt kê các
khoản hỗ trợ được nhiều địa phương lựa chọn áp dụng như hỗ trợ cho gia đình chính
sách, hỗ trợ hộ nghèo, thưởng di dời vào hướng dẫn hỗ trợ khác để các địa
phương áp dụng đồng loạt.

– Ngoài ra Trung ương và địa phương cần
xem xét bổ sung một số khoản hộ trợ khác như: Hỗ trợ thuê nhà cho người phải di
chuyển chỗ ở, hỗ trợ về học phí (có thể miễn học phí cho con em người bị thu
hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở trong 03 năm), y tế (được hưởng các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe miễn phí trong 01 năm), hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp. Nếu
có thêm các hỗ trợ như đã nêu thì sẽ đảm bảo cho người bị thu hồi đất có được
cuộc sống được đảm bảo hơn.

4. Kết luận

Đối với một nước nông nghiệp như Việt
Nam thì việc giải quyết vấn đề thưa kiện kéo dài liên quan đến công tác thu
hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là điều rất khó khăn. Người làm
nông nghiệp luôn quan niệm “tấc đất tấc vàng” nên khi Nhà nước thu hồi đất mà
họ không được bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng dẫn đến bức xúc là điều tất nhiên.

Việc đất đai ngày càng có giá trị thì
vấn đề về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Có
nhiều trường hợp người dân do không đồng tình với phương án hỗ trợ của Nhà
nước, nhà đầu tư chậm tiến độ, ảnh hưởng đến lợi ích chung của nền kinh tế – xã
hội, gây tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư của đất nước. Từ đó dẫn đến việc
người dân khiếu kiện lâu dài, đông người, vượt cấp gây mất ổn định về chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước đã nhiều lần
sửa đổi, bổ sung các quy định về hỗ trợ khi thu hồi đất. Tuy nhiên hiệu quả
chưa được như mong muốn, nhiều quy định mới được ban hành chưa phù hợp với thục
tiễn cũng như các điều kiện về hỗ trợ cho người bị thu hồi đất vẫn còn nhiều
khó khăn. Các tranh chấp khiếu kiện khi Nhà nước thu hồi đất, hỗ trợ khi thu
hồi đất tăng với mức độ gay gắt, phức tạp, ngày càng nhiều. Điều này cho thấy
chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế, chính sách hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Từ việc tiếp cận người
bị thu hồi đất cùng các khoản hỗ trợ mà họ được hưởng, nhóm tác giả tìm ra các
bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đề ra những kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ luật Dân sự số 91/2015 ban hành ngày 22/6/2015.

2. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013.

3. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014.

4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

5. Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.

SUPPORT UPON LAND ACQUISITION

BY THE VIETNAMESE GOVERNMENT:

SITUATIONS AND RECOMMENDATIONS

Ph.D. DANG CONG TRANG

Faculty of Law, Industrial University
of Ho Chi Minh City

Ph.D. HO HUU TUAN

Industrial University of Ho Chi Minh
City

Master Candidate LE THI BE BAY

Tra Vinh University

ABSTRACT:

As an agricultural country, issues
reltated to lands are major topics of cocern in Vietnam, especially when
Vietnam is developing a market economy and implementing industrialization and
modernization process. The value of lands is increasing and lands are exchanged
in the market, used as collateral in credit relationship with banks, credit
institutions and used as contributed assets to a partnership. Lands are special
resources of the country, important resources for the country development.
Hence, under current Vietnam’s laws, lands are public properties which the
State executes rights of public ownership representative and land management.

Keywords: Land acquisition, law, State.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 02 tháng 02/2017

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 02 tháng 02/2017 tại đây