Phân tích những phẩm chất và năng lực mà một người giảng viên cần có. Cho ví dụ minh họa | Vạn Điều Hay

Phân tích những phẩm chất và năng lực mà một người giảng viên cần có. Cho ví dụ minh họa

Chia sẻ

ĐỀ THU HOẠCH Chuyên đề: Tâm lý giáo dục học đại họcDành cho: Lớp NVSP Giảng viên Hình thức: Viết tiểu luận Đề bài: Phân tích những phẩm chất và năng lực mà một người giảng viên cần có. Cho ví dụ minh họa.

BÀI LÀM

  1. Đặt vấn đề:

Chúng ta đã bước sang thế kỷ mới, thế kỷ đang và nhất định sẽ có rất nhiều

những đổi thay to lớn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong giáo dục và đào tạo đã hình thành và bước đầu phát triển mạnh mẽ các khuynh hướng mới như đa dạng hoá các loại hình giáo dục, sử dụng công nghệ thông tin trong dạy-học, diễn đàn khoa học trên mạng Internet … Đảng ta cũng đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định rõ muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Chúng ta cũng định hướng được ràng trong giáo dục-đào tạo giáo dục đại học giữ vai trò nòng cốt, bởi vì giáo dục đại học có mục tiêu là đào tạo những con người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin, đang làm thay đổi nhanh chóng diện mạo của thế giới, thúc đẩy nhanh chóng tốc độ hội nhập và toàn cầu hoá, theo đó làm thay đổi mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy-học đại học. Nội dung giáo dục đại học ngày nay mang tính hiện đại và phát triển, phương pháp giáo dục coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo và tạo tiền đề để họ có khả năng tự học suốt đời.

Từ những yêu cầu trên nhiều trường đại học đã tập trung các nguồn lực vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao chất lượng chất lượng đào tạo, song những giải pháp có thể được coi là cơ bản và quyết định là xác định và xây dựng nhận thức về vai trò trách nhiệm của người thầy trong quá trình giảng dạy, tích cực đổi mới phương pháp dạy-học hiệu quả, tăng cường hệ thống tài liệu và trang thiết bị dạy học, gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học.

Trong bài viết này chúng tôi chỉ muốn đề cập đến vai trò và trách nhiệm của người thầy trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở đại học trên cơ sở thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học.

Nghề giáo là một nghề đặc biệt, cũng là một lao động nhưng sản phẩm là con

người, công cụ lao động là nhân cách của chính mình: “dùng nhân cách để đào tạo nhân cách”. Do đó đòi hỏi ở người GV một phẩm chất đạo đức và năng lực rất cao, không thể kể hết những yếu tố cụ thể, chỉ xét những điểm chung nhất mà một GV không thể thiếu:

  1. Về phẩm chất: Phải có một nhân cách mẫu mực, yêu nghề mến trẻ. Phải luôn luôn là tấm gương sáng cho mọi người, phải giữ tư cách đạo đức trong nhà trường, gia đình và xã hội. nói chung trong mọi lúc mọi nơi luôn là nười mẫu mực. Trong giảng dạy, đặt hiệu quả giáo dục lên hàng đầu, thưởng phạt công minh, không thiên vị, tất cả vì học sinh.

2. Về năng lực: xét 2 mặt là kiến thức giáo dục và kiến thức chuyên môn

– Dạy học không phải chỉ là dạy các chuyên môn của mình, mà còn mặt giáo dục, người ta còn gọi là dạy chữ và dạy người. khi có đủ tư cách đạo đức gương mẫu, GV hướng sinh viên hình thành nhân cách đạo đức tốt, tránh những thói hư tật xấu…. điều này luôn lồng ghép khi giảng dạy.

-Kiến thức chuyên môn: hiển nhiên là phải có kiến thức sâu rộng, nắm vững chuyên môn, phương pháp dạy khoa học, và luôn đổi mới cho phù hợp. “biết mười dạy một, để học sinh học một biết mười”. Để đạt được tất cả những điều này tôi nghỉ phải đốt đuốc mà tìm, nhưng không phải là không có. Những gì tôi trình bài là những gì chung nhất mà một GV cần có, và còn phải biết áp dụng cho từng tình huống cụ thể.

II. Giải quyết vấn đề

1. Cấu trúc nhân cách của người thầy giáo

– Cấu trúc nhân cách của mỗi người gồm: phẩm chất (đức) và năng lực (tài).

+ Phẩm chất là thái độ của con người đối vối hiện thực (tự nhiên, xã hội, người

khác, bản thân); là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của người đó; thường thể hiện qua hành động, hành vi, cách ứng xử…

+ Năng lực là mặt hiệu quả của tác động (tác động vào con người, vào sự việc).

+ Phẩm chất và năng lực đều bao hàm ba yếu tố cơ bản: nhận thức, tình cảm, ý

chí. Phẩm chất của nhân cách gồm: ý thức, niềm tin đạo đức (nhận thức), tình cảm đạo đức, ý chí dạo đức. Năng lực: năng lực trí tuệ (nhận thức), tình cảm trí tuệ và hành động trí tuệ (ý thức).

– Cấu trúc nhân cách của người thầy giáo:

+ Phẩm chất: thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hẹ trẻ, lòng yêu

trẻ, lòng yêu nghề nghiệp, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của

người thầy.

+ Năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo

dục, tri thức, tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học, ngôn ngữ, vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, giao tiếp sư phạm, “cảm hóa” học sinh, tổ chức hoạt động sư phạm…

1.1. Những phẩm chất của người thầy giáo:

A. Thế giới quan khoa học: là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó quyết định niềm tin chính trị, toàn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng của thầy giáo

đối với trẻ.

– Thế giới quan vừa là hiểu biết, quan điểm, vừa là sự thể nghiệm, vừa là tình

cảm sâu sắc về tự nhiên, xã hội và con người.

– Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới mác –leenin, bao gồm quan điểm

duy vật biện chứng về quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy

– Thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động như thái độ về

việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy và giáo dục, kết hợp giáo dục với thực tiễn, với chính trị.

– Thế giới quan mác- leenin là kim chỉ nam giúp cho người thầy giáo đi tiên

phong xây dựng xhcn và xây dựng niềm tin cho thế hệ trẻ.

B. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ: đây là yếu tố hạt nhân trong cấu trúc nhân

cách của người thầy giáo.

Lý tưởng người thầy giáo luôn luôn đi về phía trước, thấy hết giá trị lao động

của mình đối với thế hệ trẻ, lý tưởng của thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của học sinh.

– Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người thầy giáo biểu hiện bằng niềm say mê

nghề nghiệp, lòng yêu trẻ. Lương tâm nghề nghiệp, tận tụy với công việc, lối giản dị, giúp cho người thầy giáo vượt qua những khó khăn của cuộc sống đời thường làm việc tốt, yêu thương học sinh.

– Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ được hình thành và phát triển trong hoạt động tích

cực trong công tác giáo dục, nếu nhận thức về nghề càng cao thì tình cảm ngề nghiệp cành sâu sắc.

C. Lòng yêu trẻ: đây là một phẩm chất cao quý của người thầy giáo, một

phẩm chất đặc trưng trong nhân cách của người thầy giáo.

– Người thầy giáo có tình thường đối với con người , đối với trẻ mới có sự sáng

tạo trong nghề sư phạm. Tài sản vô giá của người thầy giáo là tình người, lòng nhiệt tình thái độ ân cần, chu đáo và vị tha.

– Lòng yêu trẻ của thầy giáo được thể hiện: thầy giáo cảm thấy sung sướng khi

tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ, sung sướng khi tháy trẻ lớn khôn, tâm hồn trong sáng, trí tuệ được phát triển. thầy giáo luôn quan tâm đầy thiện ý với trẻ, đối sử công bằng với các em, chân thành, giản dị, nghiêm khắc,yêu cầu cao đối với các em.

D. Lòng yêu nghề: muốn hoạt động trong một nghề nào đó có hiệu quả thì

người đó phải có lòng yêu nghề. Nghè sư phạm cũng vậy, người hoạt động phải có lòng yêu nghề . trên cơ sở lòng yêu trẻ người thầy giáo có động lực để yêu nghề, say xưa với nghề, có sáng kiến với công việc để hoạt động tốt phục vụ thế hệ trẻ.

Lòng yêu nghề của người thầy được thể hiện: tận tụy với công việc, luôn nghĩ

đến công việc cống hiến cho giáo dục. Trong công việc ( DH và GD) người thầy

luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp dạy học và giáo dục. Không thỏa mãn với trình độ hiểu biết của mình, tay nghề của mình, luôn học hỏi và tựu rèn luyện để hoàn thiện mình. Luôn rút ra kinh nghiệm để hoạt động sư phạm ngày càng tốt hơn , phục vụ các em nhiều hơn, vui mừng khi giao tiếp với các em nhiều hơn, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục.

E. Một số phẩm chất đạo đức cần có của người thầy giáo:

Hoạt động của người thầy giáo là nhăm thay đổi nhân cách học sinh, do đó mối

quan hệ giữa thầy và trò ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học và giáo dục. Đồng thời người thầy luôn là tâm gương sáng để hóc sinh noi theo về mọi mặt. Vì vậy, người thầy giáo cần phải có những phẩm chất đạo đức y chí sau:

– Tinh thần trách nhiệm, lòng nhân đạo , lòng tôn trọng, sự công bằng ,thẳng

thắn, giản dị khiêm tốn..

– Tính nguyên tắc, mục đích, kiên trì, tính tự kiềm chế, tính tự chủ, kỹ năng tự

điều chỉnh tâm trạng của mình cho phù hợp với các tình huống sư phạm.

Vậy phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo nên sự cân bằng trong mối quan hệ

thầy trò. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy tác động đến sâu sắc học sinh.

1.2. Năng lực của người thầy giáo (năng lực sư phạm)

Có 3 nhóm năng lực sư phạm:

– Nhóm năng lực dạy học

– Nhóm năng lực giáo dục

– Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm

1.2.1. Nhóm năng lực dạy học

Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học:

  • Dạy học là quá trình thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học,

trong đó thầy giáo là người tổ chức , điều khiển hoạt động của trẻ còn trò là người

chủ động tích cực sáng tạo để chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội. vậy hoạt động dạy học chỉ đạt được kết quả cao khi qua trình đó thực sự là quá trình điều khiển, tức là thầy giáo phải hiểu học sinh trong quá trình dạy học.

  • Năng lực hiểu học sinh là khả năng thâm nhập vào thế giới bên trong của học sinh, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng , có năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý trong quá trình dạy học và giáo dục.

– Biểu hiện năng lực hiểu học sinh của người thầy giáo:

– Khi chuẩn bị bài có tính đến trình độ nhận thức và khả năng phát triển của học

sinh, hình dung được cái gì các em có thể hiểu được, cái gì các e khó hiểu, hiểu được ở từng em như vậy.

– Khi chế biến tài liệu , trình bày tài liệu phải biết đặt mình vào địa vị người học. Đặc biết biết suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, biết xác định khối lượng và mức độ

khó khăn, đưa ra cách trình bày kiến thức mới sao cho học sinh dễ hieur, giuos cho học sinh lĩnh hội được.

– Đưa ra những câu hỏi phù hợp với từng học sinh để các em có thể trả lời được, biết được những vướng mắc của các em.

– Người giáo viên còn dự đoán được trước những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng mục đích căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.

Vậy để có năng lực này người thầy giáo phải có năng lực, trách nhiệm, yêu

thương đi sâu, đi sát học sinh, nắm vững chuyên môn , am hiểu tâm lý học sinh, tâm lý lứa tuổi. cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết như óc quan sát tinh tế, óc tưởng tượng, có khả năng phân tích và tổng hợp……

+ Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo: đây là một năng lực cơ bản

  • Người thầy giáo phải có tri thức sâu về chuyên môn và có tâm hiểu biết rộng bởi vì:

+ Người thầy giáo phải có nhiệm vụ hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh ( thế hệ trẻ). Để thực hiện nhiệm vụ đó thầy giáo phải trang bị cho họ những tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, quan điểm và thái độ….(nhất là tri thức khoa học do mình phụ trách).

+ Thầy giáo là người tổ chức quá trình tái tạo những tri thức loài người để phát

triển tâm lý con người mới.

+ Thấy giáo là nhà giáo dục có hoạt động rất đa dạng và phong phú, không chỉ giảng dạy chuyên môn và còn hình thành thế giới quan cho trẻ. Đông thời người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết để tạo ra uy tin của mình.

– Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết được thể hiện:

+ Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình phụ trách.

+ Thường xuyên theo dõi xu hướng, những phát minh khoa học thuộc môn mình phụ trách và môn học khác. Đồng thời biết tiến hành nghiên cứu khoa học và hứng thú đối với nó.

– Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để hoàn thiện trí thức cho mình.

Vậy để có năng lực này người thầy giáo phải có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm

hiểu biết của mình, luôn luôn cố gắng học hỏi và tự học để đào sâu và mở rộng tri thức. Đồng thời thầy giáo phải tự rèn luyện cho mình kỹ năng tự học.

Năng lực chế biến tài liệu học tâp

– Người thầy giáo không phải truyền đạt một cách máy móc và dập khuôn từng

câu, từng chữ trong sách giáo khoa hay tài liệu, mà phải biết chế biến tài liệu sao cho phù hợp với logich phát triển khoa học, vừa phải hợp với nhận thức của học sinh để giúp cho học sinh để hiểu , hiểu bài sâu sắc và vững chắc hơn.

a) Người thầy giáo biết chế biến tài liệu học tập được thể hiện.

– Đánh giá đúng tài liệu: xác lập được mối yêu cầu kiến thức của chương trình

với trình độ nhận thức của học sinh. Để đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của chương trình, làm cho tài liệu đó vừa sức với học sinh.

– Người thầy giáo biết tổ chức cho trẻ giành được tri thức khoa học đã đưuọc gởi

gắm trong tài liệu, truyền được sức sống của kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của họ. Người thầy giáo phải nắm bắt được logic phát triển của tri thức, hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu phải biết chế biến nhào nặn bổ sung tài liệu

– Thầy giáo phải có khả năng phân tích, hệ thống hóa kiến thức. Đồng thời có

sáng tạo khi chế biến tài liệu để cung cấp cho học sinh những kiến thức chính, bổ ích, chính xác, có liên hệ giữa kiến thức cũ với mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống

b) Nắm vũng kỹ thuật dạy học mới:

– Kết quả chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào phương pháp dạy của

thầy, do đó thầy phải biết cách dạy, nâng cao trình độ dạy. Tức là thầy phải nắm vững kỹ thuật dạy học mới.

Kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ chức , điều khiển hoạt động của trò nhắm giúp

trò chủ động, tích cực, sáng tạo lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.

Người thầy giáo nắm vugnx những kỹ thuật dạy học mới được biểu hiện ở

những chỗ:

+ biết tạo cho học sinh ở vị trí người phát minh trong quá trình dạy học.

+ truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học

sinh

+ gây được hứng thú và kích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập

+ tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập