PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN CƯỜI – PHÂN TÍCH 5 TÁC PHẨM TRUYỆN CƯỜI NHÓM 8 I. TRUYỆN KHÔI HÀI VÍ – StuDocu

PHÂN TÍCH 5 TÁC PHẨM TRUYỆN CƯỜI

NHÓM 8

I. TRUYỆN KHÔI HÀI

VÍ DỤ TRUYỆN CƯỜI ĐẶC TRƯNG : (CHÁY)

Một người sắp đi chơi xa, dặn con:

  • Hễ có ai tới thì đưa cái giấy này cho họ. Ðứa bé bỏ tờ giấy vào túi áo. Cả ngày
    không thấy ai đến. Tối, sẵn có ngọn đèn, nó lấy ra xem, chẳng may vô ý để tờ giấy
    cháy mất.

Hôm sau, có người đến hỏi:

  • Thầy cháu có nhà không?

Sực nhớ đến tờ giấy, nó buồn rầu đáp:

  • Mất rồi!

Ông khách giật mình, hỏi:

  • Mất bao giờ?

  • Tối hôm qua.

  • Sao mà mất?

  • Cháy!

( Truyện cười dân gian Việt Nam – NXB Văn học, Hà Nội – 1964
Văn học 7, tập 1, trang 3, NXB Giáo dục – 2000.)

ĐẶC TRƯNG NỘI DUNG :

a. Khái quát nội dung:

  • Câu chuyện kể về sự hiểu lầm hớ hênh giữa người khách và đứa bé. Người
    khách muốn hỏi về cha cậu nhưng cậu lại trả lời về tờ giấy nhưng trong một sự
    trùng hợp lại ăn khớp với câu hỏi của vị khách ở câu hỏi thứ nhất và thứ hai khiến
    người khách đâm ra hoảng hốt rồi dẫn đến hiểu lầm là cha cậu chết.

b. Phân tích :

  • Hành động thứ nhất: cậu bé làm cháy tờ giấy

 Người cha đi chơi xa, cẩn thận để lại tờ giấy cho đứa con phòng khi có
khách đến. Đứa bé nhận tờ giấy với thái độ nghiêm túc, cẩn thận bỏ tờ
giấy vào túi áo.
 “Cả ngày không thấy ai đến. Tối, sẵn có ngọn đèn, nó lấy ra xem, chẳng
may vô ý để tờ giấy cháy mất.”
 Tình huống khó đỡ khi cậu bé làm cháy tờ giấy, không hoàn thành nhiệm
vụ cha giao cho. Đây cũng là yếu tố tiên quyết gây nên tiếng cười cho
câu chuyện.
 Hành động thứ hai: người khách đến nhà chơi và gặp cậu bé
 Câu hỏi thứ nhất “ Thầy cháu có nhà không ?”- “Mất rồi”: Câu hỏi lịch
sự mỗi khi một người đến nhà ai đó chơi và chỉ thấy trẻ con ở nhà. Đáp
lại là câu trả lời trong sự hoảng hốt, lo sợ của cậu bé : “Mất rồi!” chứ
không thực sự để ý đến nội dung câu hỏi của người khách. => Câu trả lời
thiếu chủ ngữ khiến người khách bắt đầu hiểu lầm.
 Câu hỏi thứ hai “Mất bao giờ?”- “Hôm qua!”: Vì hiểu lầm cha cậu bé
mất người khách tiếp tục hỏi trong sự hoảng hốt. Xét về mặt tâm lý,
thằng bé chỉ suy nghĩ về tờ giấy bị cháy hôm qua.
 Câu hỏi thứ ba “Sao mà mất”- “Cháy!”: Hiểu lầm tiếp nối hiểu lầm, yếu
tố gây hài xuyên suốt màn hỏi đáp nhưng đây mới là đỉnh điểm của cái
cười.
 Màn đối thoại diễn ra một cách đầy éo le khi người khách đến hỏi cha cậu
mà cậu bé lại trả lời một nẻo từ đó làm nảy sinh cuộc đối thoại “Ông nói gà,
bà nói vịt” như trên. Ở đây, cả người hỏi và người trả lời đều đúng, đúng
theo mạch tư duy nhưng lại sai so với hoàn cảnh, mục đích hỏi và trả lời.
c. Mục đích của tiếng cười:

  • Đối tượng, nội dung và yếu tố gây cười trong này rất nhẹ nhàng, thoải mái.
    Bởi truyện “Cháy” này không nhằm mục đích phê phán, đả kích ai mà chỉ đơn
    thuần là qua cuộc hội thoại của cậu bé và ông khách để khiến cho người nghe bật
    ra tiếng cười một cách tự nhiên nhất, thoải mái nhất. Đó cũng được gọi là tiếng
    cười mua vui, giải trí.

khách lại hỏi dồn 1 lần nữa: “Tại sao mất?” cậu bé đã trả lời trong sự nức nở
“Cháy!”.

  • Chúng ta cười vì câu trả lời hồn nhiên đến ngạc nhiên nhưng cũng cười
    trước thái độ bị sốc mạnh của ông khách khi nghe tin như sét đánh ngang tai.

ĐẶC TRƯNG CHỨC NĂNG:

b. aải trí, gây cười :
Tiếng cười ở đây nhằm mục đích mua vui là chính, bởi trong truyện “Cháy”
với sự ngây thơ của cậu bé cùng với cử chỉ sốc mạnh của ông khách đã khiến cho
chúng ta phải bật cười một cách tự nhiên, cười lớn.

Câu truyện “Cháy” cũng không mang nhiều tính triết lí thâm sâu như truyện
trào phúng hay sâu sắc như truyện Trạng. Câu truyện chỉ đơn thuần lấy những hiểu
lầm thường gặp, dễ mắc phải trong đời sống hằng ngày làm tiếng cười điển hình là
lối nói tắt và “Ông nói gà bà nói vịt.” như trên.

Tiếng cười ở đây còn giúp cho chúng ta sảng khoái tinh thần sau ngày dài
mệt mỏi, giúp xả stress và giúp não tiết ra serotonin chữa lành cơ thể.

b. Nhận thức:
Làm cho mọi người nhận thức được tầm quan trọng của việc nói đầy đủ
thành phần chủ vị câu trong cuộc sống.

c. Thẩm mỹ:
Từ cách nói chuyện không rõ đầu đuôi của cậu bé ta biết được khi nói
chuyện cần sử dụng ngôn ngữ, câu từ cho phù hợp mang tính thẩm mỹ, cụ thể.

d. Sinh hoạt:
Loại truyện này được truyền miệng rộng rãi, có thể được kể ở bất cứ đâu và
bất cứ lúc nào. Ngoài ra, còn được áp dụng trong giảng dạy.

e. Giáo dục:
Ngụ ý trong giao tiếp không nên lạm dụng cách nói rút gọn phải sử dụng
đầy đủ cả chủ ngữ, vị ngữ để tránh gây hiểu lầm cho người nghe.

VÍ DỤ TRUYỆN CƯỜI ĐẶC TRƯNG: ( BỐ MÀY! ĐÃ CHẾT VỚI TAO CHƯA! )

Một anh, nhà có giỗ, vợ vừa làm cỗ xong, đặt lên bàn thờ thì một con ruồi đến đậu
ngay lên đĩa thịt. Chị vợ vội kêu lên:

  • Thôi chết rồi! Mâm cơm cúng ông bà mà anh không coi cẩn thận để ruồi nó đậu
    vào, làm uế tạp mất rồi!

Anh chồng nghe thế, giận con ruồi lắm, nghĩ bụng: Hai vợ chồng lòng thành làm
được mâm cơm mà con ruồi nó làm ô uế, giờ có cúng, ông bà cũng không về
hưởng nữa, liền lên huyện kêu:

  • Bẩm lạy quan lớn, chúng tôi vất vả quanh năm hôm nay mới làm đuợc mâm cơm
    cúng ông bà, thế mà con ruồi nó sà vào, làm ô uế cả. Xin quan lớn xử tội nhờ.

Quan nghe xong bảo:

  • Tao cho phép mày từ rày hễ thấy nó bất kỳ ở đâu, cứ đánh cho chết.

Quan vừa buông lời, thì một con ruồi đến đậu ngay trên má quan.

Anh kia trông thấy, mắm môi, giang tay tát bốp vào mặt quan chứi:

  • Bố mày! Ðã chết với tao chưa!

(Theo Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên) – Hồ Quốc Hùng – Nguyễn Thị
Ngọc Điệp, Văn học dân gian, những tác phẩm chọn lọc.)

ĐẶC TRƯNG NỘI DUNG :

a. Khái quát nội dung:
-Câu chuyện kể về một đôi vợ chồng vì tức giận con ruồi đậu vào mâm cơm
mà cả hai đã dùng cả lòng thành chuẩn bị để cúng giỗ ông bà, mà đi kiện lên quan
huyện và cái đáng cười nằm ở chỗ vị quan huyện này lại vì chính lời phán xử của
mình mà bị anh kia “tát bóp vào mặt quan chửi: Bố mày! Đã chết với tao chưa”.

bân tích:
-Hành động thứ nhất : Phát hiện con ruồi đậu lên mâm cỗ và tức giận:
 “Vợ vừa làm cỗ xong, đặt lên bàn thờ thì một con ruồi đến đậu ngay
lên đĩa thịt. Chị vợ vội kêu lên: Thôi chết rồi! Mâm cơm cúng ông bà
mà anh không coi cẩn thận để ruồi nó đậu vào, làm uế tạp mất rồi!”.

truyện khiến tiếng cười của người đọc được bật ra một cách sảng khoái và tự
nhiên.

ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT:

a. Nhân vật
-Cái đáng cười trong truyện “Bố mày !Đã chết với tao chưa!” được thể hiện
qua cử chỉ và lời nói đáng cười. Cụ thể là khi anh này đã tát vào mặt ông quan để
đập chết con ruồi và nói lớn rằng: “Bố mày đã chết với tao chưa”, cử chỉ và lời nói
xảy ra nhanh chóng, bất ngờ và đột ngột khiến người nghe sửng sốt trước hành
động của anh cũng như mắc cười với diễn biến câu truyện như thế.

-Trong truyện này có 3 nhân vật : Người vợ, anh chồng và ông quan. Người
vợ tuy không nổi bật nhưng vẫn giữ vai trò nhất định. Chủ yếu vẫn là anh chồng
(nhân vật chính gây ra cái đáng cười) và ông quan (nhân vật phụ của câu truyện
thúc đẩy cái đáng cười ).

b. Cốt truyện:
Phân đoạn đầu : Thể hiện qua câu mở đầu ngắn gọn, súc tích: “Một anh, nhà
có giỗ, vợ vừa làm cỗ xong, đặt lên bàn thờ…” khi con ruồi bỗng từ đâu đậu lên
mâm cỗ. => Mâu thuẫn đã được sắp đặt.
Phân đoạn nút : Sau khi bị vợ mắng vì để ruồi đậu lên mâm cỗ. Anh chồng
tức giận liền báo quan: “Bẩm lạy quan lớn, chúng tôi vất vả quanh năm hôm nay
mới làm đuợc mâm cơm cúng ông bà, thế mà con ruồi nó sà vào, làm ô uế cả. Xin
quan lớn xử tội nhờ.”=> Mâu thuẫn đang dần được đưa lên tầm cao mới, chỉ vì một
con ruồi mà đi báo quan thế chẳng phải là “Chuyện bé xé ra to” hay sao.
Phân đoạn kết: Vị quan trả lời :“Tao cho phép mày từ rày hễ thấy nó bất kỳ ở
đâu, cứ đánh cho chết.” ngay lập tức không biết từ đâu lại có một con ruồi bay đến,
đậu ngay vào má ông quan và như thế đã gây nên cớ sự: “Anh kia trông thấy, mắm
môi, giang tay tát bốp vào mặt quan chứi: Bố mày! Ðã chết với tao chưa!”. Đến
đây mâu thuẫn đã được bộc lộ khiến người đọc không thể không thốt ra tiếng cười.

f. Biện pháp nghệ thuật ( câu chuyện đã sử dụng 2 biện pháp sau )

  • Phóng đại sự thật : Truyện sử dụng lối nói phóng đại. Ở đây, dù tức giận con
    ruồi đậu lên mâm cỗ nhưng thực tế chẳng có ai lại vì chuyện đó mà đi kiện một
    con ruồi cả.
  • Tạo yếu tố bất ngờ : Để gây tiếng cười giòn giã, sảng khoái truyện cười dân
    gian thường dùng yếu tố bất ngờ để tạo cảm xúc mạnh. Trong truyện này, yếu tố
    bất ngờ nằm ở cú tát của anh chồng đối với ông quan huyện và sau đó là lời nói:

“Bố mày! Ðã chết với tao chưa! “ khiến ta cười không chỉ bởi lời nói này mà còn
cười cho nhân vật bị ăn tát.

ĐẶC TRƯNG CHỨC NĂNG:

a. Giải trí, gây cười:
-Trong truyện “Bố mày! Đã chết với tao chưa!”, cũng chính nhờ sự lố lăng
của đôi vợ chồng mà dẫn đến cớ sự như thế để rồi từ một tình huống đơn giản
người ta phải bật cười vì cú tát của anh chồng dành cho ông quan và câu nói chốt
hạ ở cuối truyện.

b. Nhận thức:
-Câu chuyện chê trách sự lố lăng của đôi vợ chồng nhưng cũng chỉ ở mức
nhẹ nhàng, chủ yếu vẫn là cười cho vui cuộc sống, sảng khoái tinh thần.

c. Thẩm mỹ:
-Từ hành động thái quá, thiếu suy xét của người chồng tác giả dân gian
muốn nhắn nhủ với người đọc là khi làm bất cứ chuyện gì cũng phải suy xét kĩ,
tránh gây ra những tình huống khó đỡ.

d. Sinh hoạt:
-Câu chuyện này vừa được lưu truyền bằng miệng vừa được in trong sách
vở.

e. Giáo dục :
-Bên cạnh đó, câu truyện cũng nhắc nhở chúng ta rằng khi gặp phải một vấn đề
nào đó cần phải biết suy xét kĩ càng, giải quyết rõ ràng và bao quát để tránh dẫn
đến những hiểu lầm không đáng có.

của anh ta không dừng lại ở sự trẻ con nữa mà thành một hành động đáng
chê cười, đả kích. Vì không được ai khen mà anh ta trở nên tức tối, bực bộ.
 Anh có áo mới thích khoe của đến mức đứng ở cổng từ sáng đến chiều mà
không thấy ai đi qua mà hậm hực.

-Hành động của anh “lợn cưới”: “Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay
khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to: Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây
không?”

 Lại càng ngớ ngẩn hơn khi có một người đàn ông kia (anh “lợn cưới”) tỏ ra
hớt hải chạy đến hỏi anh chàng này : “Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy
qua đây không?”. Lời hỏi han sẽ rất bình thường nếu như anh ta không cố
tình nhấn mạnh từ “lợn cưới”. Con lợn thì ai cũng biết, nhưng lợn cưới thì
thật kì quặc, nó “đậm” mùi khoe khoang, chẳng là nhà của người đàn ông
này đang có công việc, vì vậy mà việc hỏi con lợn cưới chỉ là hình thức màu
mè bên ngoài. Còn mục đích chính là khoe hôm nay nhà tôi có việc, có tổ
chức ăn uống rất linh đình.
 Anh “lợn cưới” thích khoe của đến mức khoe trong tình huống mất con lợn
mới (trong đám cưới) nên đi tìm.

-Màn đối thoại của 2 anh chàng:

 Ta có thể thấy hai anh chàng khoe khoang đều gặp đúng đối thủ, đúng là “vỏ
quýt dày thì có móng tay nhọn”. Người đàn ông chạy đi tìm lợn hỏi với
giọng điệu vô cùng hồ hởi, câu trả lời anh ta mong muốn nhận được nhất lúc
này là sự hỏi thăm về con lợn cưới.
 Nhưng, đối thủ của anh ta lại không phải là người bình thường, anh ta trả lời
nhưng cũng không giống với câu trả lời mà người đàn ông tìm lợn muốn
nghe: “Từ lúc tôi mặc chiếc áo mới này, chẳng thấy con lợn nào chạy qua
đây cả!”. Nghe qua, câu trả lời đáp ứng được câu hỏi nhưng ai cũng có thể
phát hiện ra mục đích của anh chàng kia cũng không phải trả lời mà là khoe
về chiếc áo của mình.
 Câu truyện đáng cười vì ai cũng thích khoe khoang, thể hiện. Lời lẽ và cử chỉ
của nhân vật chỉ hướng đến mục đích khoe của, khoe của một cách vô duyên và
quá lộ liễu. Cách khoe của này không ngờ lại gây cười cho người trong thiên hạ.

=>Tiếng cười châm biếm ( cụ thể trong trào phúng bạn): Những thói xấu “thông
thường” ở những người bình dân bộc lộ ở những hành vi buồn cười trong sinh hoạt
của họ.

cục đích của tiếng cười:

  • Ở đây nó là tiếng cười châm biếm nhưng không gay gắt và quyết liệt như
    tiếng cười trào phúng dành cho giai cấp thống trị (trào phúng thù). Truyện cười
    “Lợn cưới áo mới” mượn tình huống hài hước, khoe của của hai người đàn ông để
    phản ánh và chế giễu những người có lối sống khoe khoang một cách quá trớn,
    khoe không có điểm dừng và không khéo léo. Mang lại tiếng cười vui vẻ nhẹ
    nhàng nhưng có ý nghĩa sâu cay đối với chúng ta về thói xấu phổ biến của một bộ
    phận người trong xã hội – khoe khoang.

ĐẶC TRƯNG VỀ NGHỆ THUẬT :

a. Nhân vật:

  • Ở đây là tiếng cười trào phúng bạn, nó phê phán những thói hư tật xấu
    trong nội bộ nhân dân và có ý nghĩa giáo dục. Đối tượng của cái cười trong “Lợn
    cưới áo mới” là cái đáng cười mà nhân vật để lộ qua hành vi ứng xử của mình –
    thói khoe khoang, một thói xấu phổ biến trong xã hội.

  • Nhân vật trong tác phẩm không có tên riêng và địa vị xã hội cũng không cụ
    thể. Truyện chỉ nhắc đến “anh tính hay khoe của” và anh lợn cưới.

  • Nhân vật trong truyện trào phúng bạn là nhân vật bị châm biếm đả kích,
    thường là một bộ phận nhân dân có thói hư tật xấu (như lười nhác, tham lam, ăn
    vụng, khoác lác, hà tiện, hèn nhát, sợ vợ, chanh chua, …). Còn trong tác phẩm
    “Lợn cưới áo mới”, nhân vật đã gây nên tiếng cười qua tính cách khoe khoang của
    mình, vì muốn được người khác trầm trồ nên đã tạo ra những hành động khó đỡ và
    lời nói trái lẽ thường.

  • Nhân vật chính gây ra cái đáng cười là anh “áo mới”, chỉ vì muốn khoe áo
    mới mà đứng hóng từ sáng tới chiều. Nhân vật phụ thúc đậy tiếng cười bộc phát là
    anh “lợn cưới”. Nếu không có anh lợn cưới thì câu chuyện sẽ kết thúc ở chỗ anh
    “áo mới” đứng ở cửa nhà tức giận vì không khoe được chiếc áo, nên anh “lợn
    cưới” chính là nhân tố quan trọng trong câu truyện.

bốt truyện:

  • Mấu chốt gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự nó bộc lộ ra
    một cách cụ thể, sinh động, nực cười và bất ngờ nhất. Truyện cười không tự đặt ra
    cho mình nhiệm vụ kể lại số phận, cuộc đời của nhân vật như trong truyện cổ tích.
    Nó chỉ là một lát cắt ngang trong cuộc đời của nhân vật. Khi tiếng cười nổ ra là lúc

”Lợn cưới”: Không nhất thiết phải nói là “lợn cưới”, chỉ cần nói “lợn” là đủ nhưng
anh chàng cứ cố nhấn mạnh yếu tố “cưới” ở đây để khoe của, khoe con lợn của
mình.

  • Tuy nhiên anh chàng này lại gặp ngay “đối thủ” khoe khoang cũng ngang
    cơ mình. Anh được hỏi cũng chẳng vừa, lẽ ra chỉ cần thông báo điều mà người hỏi
    muốn biết, anh lại cũng tranh thủ khoe luôn chiếc áo mới của mình “ Từ lúc tôi mặc
    cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả! ”
  • Tác giả dân gian kích thích tiếng cười của ta nhiều lần và làm cho tiếng
    cười nâng lên dần tầng mức rồi kết thức nó khi đạt đến tuyệt đỉnh. Đó chính là
    nghệ thuật tiệm tiến, hay còn là cách bố cục gói kín mở nhanh.

  • Bên cạnh đó, tiếng cười còn được tạo nhờ cách sử dụng ngôn ngữ khoe lố
    bịch; qua việc miêu tả điệu bộ, hành động của nhân vật; nghệ thuật phóng đại; …

ĐẶC TRƯNG VỀ CHỨC NĂNG:

a. Nhận thức, đ ấu tranh xã hội :
-Truyện cười “Lợn cưới áo mới” là những tiếng cười mỉa mai, châm biếm
thói hay khoe, háo danh, hay thích thể hiện mình của một số người trong xã hội.

b. Thẩm mỹ:
-Qua việc phê phán thói khoe khoang của anh “áo mới” và anh “lợn cưới”,
câu chuyện cũng muốn đề cao về sự khiêm tốn, chừng mực trong cách xử sự.

c. Sinh hoạt:
-Câu chuyện được lưu truyền bằng miệng và được đưa vào trong giảng dạy
ở trường học.

d. Giáo dục :

-Khoe khoang là một thói quen xấu, tuy không gây hại cho người khác
nhưng để lại những ấn tượng không tốt trong mắt người đối diện. Những lời khoe
khoang khiến cho người nói trở nên lố bịch đồng thời gây khó chịu cho người
khác.

-Cần sống giản dị, khiêm nhường, tài năng và giá trị của con người được
khẳng định qua những hành động cụ thể chứ không phải những lời khoe khoang
sáo rỗng, vô vị.

VÍ DỤ TRUYỆN CƯỜI ĐẶC TRƯNG (HAI KIỂU ÁO)

Có ông quan lớn đến hiệu may để may một cái áo thật sang tiếp khách. Biết quan
xưa nay nổi tiếng luồn cúi quan trên, hách dịch với dân, người thợ may bèn hỏi:

  • Xin quan lớn cho biết ngài may chiếc áo này để tiếp ai ạ?

Quan lớn ngạc nhiên:

  • Nhà ngươi biết để làm gì?

Người thợ may đáp:

  • Thưa ngài, con hỏi để may cho vừa. Nếu ngài mặc hầu quan trên thì vạt đằng
    trước phải mau ngắn đi dăm tấc, còn nếu ngài mặc để tiếp dân đen, thì vạt đằng sau
    phải may ngắn lại.

Quan ngẫm nghĩ một hồi rồi bão:

  • Thế thì nhà ngươi may cho ta cả hai kiểu.

(Theo Trường Chính – Phong Châu, Tiếng cười dân gian Việt Nam)

ĐẶC TRƯNG NỘI DUNG:

a. Khái quát nội dung :

  • Cuộc đối thoại giữa một ông quan lớn với người thợ may.
    g. Phân tích :

  • Khi người thợ may hỏi “Xin quan lớn cho biết ngài may chiếc áo này để
    tiếp ai ạ?” => có ý mỉa mai, kháy quan.

  • “Nếu ngài mặc hầu quan trên thì vạt đằng trước phải may ngắn đi dăm tấc,
    còn nếu ngài mặc để tiếp dân đen, thì vạt đằng sau phải may ngắn lại.” => Thông
    thường kiểu áo lương ngày xưa hai vạt trước và sau đều bằng nhau. Nhưng khi
    may áo cho quan người thợ may nói ra điều trên với nội dung ngầm ẩn: để ngài cúi
    gập trước quan trên và vênh mặt lên khi đứng trước thường dân. Nói cụ thể hơn thì
    quan là kẻ xu nịnh, cúi người (thậm chí quỳ dưới chân) trước quan trên và hống
    hách (thường ưỡn ngực ta đây) trước đám dân đen con đỏ. Khi ưỡn ngực thì vạt
    trước phải hếch lên, vạt sau chùng xuống nên phải cắt ngắn đi, còn khi phải cúi
    xuống thì vạt trước

j. Biện pháp nghệ thuật:

  • Nghệ thuật phóng đại: phản ánh hiện thực một cách nghệ thuật giống như
    nghệ thuật biếm họa trong hội họa: Việc may áo được phóng đại để bóc lột trần trụi
    thói hư tật xấu của con người trong xã hội lúc bấy giờ.

  • Tạo yếu tố bất ngờ: câu hỏi của người thợ may mang đầy hàm ý, đến khi vị
    quan kinh ngạc hỏi lại thì đáp trả một cách thông minh chứa đựng sự mỉa mai kín
    đáo: “Nếu ngài mặc hầu quan trên thì vạt đằng trước phải mau ngắn đi dăm tấc,
    còn nếu ngài mặc để tiếp dân đen, thì vạt đằng sau phải may ngắn lại.”

ĐẶC TRƯNG CHỨC NĂNG:

aận thức, đấu tranh xã hội : Phê phán thói xấu, đối xử không công bằng
với mọi người, có thái độ phân chia theo cấp bậc, sự khinh bỉ những người nghèo
khổ

bẩm mỹ : hướng người đọc tới những cái tốt đẹp hơn qua nhân vật quan
trong truyện, sống phải ngay thẳng, liêm chính, không phân biệt đối xử với những
người thấp bé

c hoạt : câu truyện được lưu truyền bằng hình thức truyền miệng, sách
vở

dáo dục : Trong việc giao tiếp, chúng ta nên có cách hành xử hợp lí, thái
độ hòa nhã với tất cả mọi người chứ không nên phân biệt đối xử

VÍ DỤ TRUYỆN CƯỜI ĐẶC TRƯNG ( ĐẤT NỨT CON BỌ HUNG)

Từ bé Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú
Cát rất hợm hĩnh, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Quỳnh rất ghét những loại
người như vậy. Một hôm Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú
Cát đi qua trông thấy, liền gọi Quỳnh lại và bảo:

  • Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một
    câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn.

Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga:

  • Lợn cấn ăn cám tốn.
    Tú Cát nghĩ rằng câu này rất khó đối, ví “Cấn” và “Tốn” là hai quẻ trong
    kinh Dịch nào ngờ. Quỳnh đối lại ngay:

  • Chó khôn chớ cắn càn.
    Quẻ này cũng có “Khôn” và “Càn” là tên hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời
    lại có ý xỏ Tú Cát là chó. Không ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm
    hằm bảo:

  • Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay – rồi đọc – Trời sinh ông Tú
    Cát.

Quỳnh đáp luôn:

  • Đất nứt con bọ hung.
    Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối rất chỉnh,
    đành lùi thủi bỏ đi.

(Truyện được tổng hợp từ trang web giaingo)

NỘI DUNG TRUYỆN CHUNG CỦA TRẠNG QUỲNH :

-Truyện lấy bối cảnh cả 2 Đàng thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Cụ thể là thời
Hậu Lê. Những sự kiện trong truyện xảy ra có thể không chính xác tuyệt đối so với
thời gian thực tế.

-Truyện kể về cuộc đời của Trạng Quỳnh – một nhân vật có thật trong lịch
sử, mang tính cách trào phúng dân gian Việt Nam.

-Trạng Quỳnh có tư chất thông minh ngay từ trong bụng mẹ. Từ nhỏ, Quỳnh
đã tỏ ra thông minh, học đâu nhớ đấy. Cậu ước mơ sau này sẽ làm ông trạng. Mặt
khác, cậu cũng khá quậy, thường ở bẩn.

-Nội dung truyện đã phản ánh rõ được tính cách của 2 nhân vật:

  • Quỳnh ghét những người tự cao như Tú Cát nên đã không ngần ngại nhận
    so tài với ông ta và đã có những câu đáp lại vế đối của ông Tú hết sức gắt gao như
    đã phân tích ở trên.

+Tú Cát luôn ngạo mạn với học vấn của mình, không phục chuyện một đứa
trẻ như Quỳnh lại có học vấn cao siêu nên đã sinh tâm tranh đấu. Muốn cho Quỳnh
biết mình là người tài trí nên đã sinh sự bằng kiến thức và cả lời dọa nạt với
Quỳnh.

-Sau cùng thì trái bóng cao ngạo là Tú Cát cũng bị Quỳnh chọc cho xì hết.
Tú bị xỏ đau và không còn chữ để đối lại với Quỳnh nên đã bỏ đi. Nhưng là bỏ đi
với sự không phục, bằng mặt nhưng không bằng lòng: “Tú Cát tức đến sặc tiết
nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối rất chỉnh, đành lùi thủi bỏ đi.”

ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT:

a. Nhân vật
-Quỳnh: Tính cách thông minh, hiểu biết sâu rộng, là người làm bật lên và
châm biếm những thói hư tật xấu của những quan viên, trọc phú (trong truyện này
là Tú Cát).

-Tú Cát: Một người tâm cao khí ngạo, luôn tự cao về việc bản thân học sâu
hiểu rộng, thi đỗ Tú tài. Bên cạnh đó còn có tính hiếu thắng, hơn thua với cả trẻ
con. Mặc dù coi mình là kẻ sĩ phu nhưng lại dùng vũ lực để de dọa Quỳnh: “Bây
giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn.”

k. Cốt truyện
-Phân đoạn đầu : Phần mở đầu đơn giản, đi thẳng vào trọng tâm câu chuyện.
Giới thiệu ngắn gọn tính cách, đặc điểm nhân vật Quỳnh và Tú Cát (Quỳnh học
giỏi, đối đáp nhanh, ghét những người có chút tài năng, địa vị là đã ra oai; Tú Cát
hợm mình, luôn cho rằng mình hay chữ). Sau đó đi thẳng vào bối cảnh câu chuyện:
Quỳnh đang xem lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát thấy và màn đối đáp kinh điển
nổ ra.

-Phân đoạn nút: Phát triển nội dung lên tới cao trào, đẩy mâu thuẫn dần lên
đỉnh điểm.

+“Lợn cấn ăn cám tốn” – “Chó khôn chớ cắn càn”, vế ông Tú đối chỉ mang
ý mỉa mai; Quỳnh đối lại ngoài mang ý mỉa mai còn kèm thêm cảnh báo.

+“Trời sinh ông Tú Cát” – Đất nứt con bọ hung”, ông Tú vốn chỉ muốn hợm
mình, nhắc nhở Quỳnh về thân phận Tú Tài của ông ta, Quỳnh giật ông ta từ trên
trời xuống, nhắc cho ông ta biết vị trí của mình.

Những vế đối không nói rõ ý nghĩa truyền tải trên mặt chữ khiến người
đọc phải trâm ngâm suy tư để bật cười và hiểu được nội dung, bài học từ truyện.

-Phân đoạn kết : Mâu thuẫn chính thức lên tới đỉnh điểm.

  • Tú Cát rơi vào thế bí và bỏ đi. Tiếng cười bề mặt là màn đấu trí với phần
    thua đậm sâu thuộc về Tú Cát. Tiếng cười tiềm tàng trong đó là những câu đối
    mang ý “chửi xéo” của Quỳnh.

  • Tình tiết gây cười ở Đất nứt con bọ hung không tập trung toàn bộ ở cuối
    truyện mà dàn trải, tăng dần với cường độ mạnh hơn. Bắt đầu từ khi Tú Cát đưa ra
    câu đối để mở đầu màn đọ trí cho đến khi Tú không còn nói lại được nữa mà bỏ đi.

l. Biện pháp nghệ thuật:
-Kể theo hình thức tự sự, cốt truyện đơn giản, tình huống truyện rõ rệt lấy
cuộc đối thoại giữa Quỳnh và đối tượng trào phúng làm trung tâm.

-Sử dụng ngôi kể thứ 3, người kể chuyện đứng ở ngoài quan sát sự việc, thấy
được hết tâm trạng, tình cảm, hành động của nhân vật.

-Hệ thống ngữ cô đọng, súc tích, mang tính tư duy.
-Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật phù hợp với hoàn cảnh và tình huống
truyện.

+Quỳnh thông minh, đối đáp giỏi: không ngần ngại chấp nhận lời
thách đấu của Tú Cát, đối đáp nhanh lẹ, không chần chừ và biết sử dụng kiến
thức đúng chỗ để xử lí người hợm hĩnh như ông Tú.
+Tú Cát thường hay hợm mình, luôn nghĩ bản thân tài trí kiệt xuất nên
muốn đọ trí với Quỳnh. Sự hống hách dần chuyển sang phẫn nộ, uất ức khi
bị sự thông minh của Quỳnh trừng trị.
-Xây dựng nhân vật nhất quán về tính cách, lời nói, suy nghĩ.
+Quỳnh cho dù bị dọa đánh hay bị Tú Cát ra vế đối khó cũng không
nao núng mà hiên ngang đối lại ngay. Tú Cát cho dù đối thua cũng giữ
nguyên sự ngạo mạn, không phục mà bỏ đi.
+Lối đối đáp tài tình giữa Trạng Quỳnh và Tú Cát, thể hiện được trí
tuệ của người xưa