Những quy định pháp luật về hoạt động dịch vụ pháp lý
Dịch vụ pháp lý là gì?
Trong đời sống hàng ngày, mọi người thường nghe nói đến cụm từ “dịch vụ pháp lý”. Vậy dịch vụ pháp lý là gì, được quy định như thế nào và ai được quyền hành nghề dịch vụ pháp lý? Câu hỏi này không phải ai cũng có thể trả lời được và trả lời một cách rành mạch. “Dịch vụ pháp lý” là một lĩnh vực khá rộng, là “đặc quyền” của giới Luật sư, được pháp luật bảo hộ. Bởi lẽ, chỉ có văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực hành nghề Luật sư (Pháp lệnh Luật sư và văn bản hướng dẫn thi hành) mới quy định về lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Pháp lệnh Luật sư năm 1987 và Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đều quy định về vấn đề này, tuy mỗi thời điểm, khái niệm về “dịch vụ pháp lý” được hiểu ở mức độ khác nhau.
Theo Pháp lệnh Luật sư năm 1987, “dịch vụ pháp lý” là sự giúp đỡ pháp luật, bao gồm: Việc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc đại diện cho người bị hại và các đương sự khác trong vụ án hình sự, kể cả vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; Đại diện cho các bên đương sự trong các vụ án dân sự hôn nhân gia đình và lao động; Làm tư vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế nhà nước, tập thể và tư nhân, kể cả tổ chức kinh tế nước ngoài; Làm các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức.
Pháp lệnh Luật sưnăm 2001 quy định “dịch vụ pháp lý” bao gồm ba lĩnh vực: Tố tụng, tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác. Đó là: Việc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; Việc tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành chính; Việc tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; Tư vấn pháp luật, soạn thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; Đại diện theo ủy quyền của cá nhân, tổ chức để thực hiện công việc có liên quan đến pháp luật; Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cả Pháp lệnh Luật sư 1987 và Pháp lệnh Luật sư 2001 đều có cụm từ “dịch vụ pháp lý khác”. Thế nhưng dịch vụ pháp lý khác là gì thì hai văn bản quan trọng nhất này lại không nói rõ. Mặc dù Pháp lệnh Luật sư 1987 đã hết hiệu lực thi hành, trong khi Pháp lệnh Luật sư mới chưa có văn bản hướng dẫn về “dịch vụ pháp lý khác”. Do vậy, “Dịch vụ pháp lý khác” “tạm thời” vẫn phải sử dụng theo văn bản hướng dẫn trước đây. Điều 30, Quy chế đoàn Luật sư ban hành kèm theo Nghị định 15/HĐBT ngày 21-2-1989 của Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Luật sư 1987 do Hội đồng Nhà nước ban hành thì các dịch vụ pháp lý khác là: Việc hướng dẫn, giải thích về những vấn đề có liên quan đến pháp luật; Hướng dẫn làm các đơn, từ, hợp đồng; Hướng dẫn viết di chúc, giấy tờ tặng cho và các văn bản có tính chất pháp lý. Việc hướng dẫn có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng.
Ai được làm dịch vụ pháp lý?
Như đã nói trên, hoạt động dịch vụ pháp lý được hình thành và phát triển qua một thời gian khá dài, gần 20 năm. Trong sự phát triển đó, hoạt động dịch vụ pháp lý đã từng trải qua những thăng trầm và đến nay, dù chưa hẳn đã hoàn thiện nhưng ít ra cũng đi vào khuôn khổ.
Trước đây, theo Pháp lệnh Luật sư 1987, đối tượng được làm dịch vụ pháp lý bao gồm Luật sư, Luật sư tập sự và những người có đủ các tiêu chuẩn đã quy định tại phần II, Thông tư 1119/QLTPK ngày 24-12-1987 của Bộ Tư pháp (gọi tắt là “Người khác”). “Người khác” theo Thông tư 1119 phải hội đủ điều kiện: Có tư cách đạo đức; Đã tốt nghiệp đại học pháp lý hoặc đã qua công tác pháp lý từ 5 năm trở lên và có kiến thức tương đương đại học pháp lý. Điều đáng lưu ý là vào thời điểm đó, chuyên viên tư vấn pháp luật tại các văn phòng dịch vụ pháp lý (bao gồm Luật sư, Luật sư tập sự, “người khác”) chỉ được thực hiện tư vấn về giải đáp pháp luật; Tư vấn về cơ sở pháp lý của các hoạt động kinh tế, xã hội, quản lý xí nghiệp: Tư vấn trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, dân sự và lao động; Hướng dẫn xây dựng các nội quy, quy chế cơ sở… mà không được phép đại diện cho đương sự để tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế và tranh chấp dân sự hoặc thay mặt đương sự trực tiếp đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đề nghị giải quyết một việc cụ thể.
So với Pháp lệnh Luật sư 1970, quy định về đối tượng được làm dịch vụ pháp lý theo pháp lệnh hiện hành có hạn chế lớn nhưng phạm vi lại được mở rộng hơn rất nhiều. Theo Pháp lệnh Luật sư 2001 và Nghị định 94/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12-12-2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư, chỉ những người được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư và tham gia một tổ chức hành nghề Luật sư (Văn phòng Luật sư hay Công ty luật hợp danh) thì mới được làm dịch vụ pháp lý. Luật sư tập sự khi hoạt động dịch vụ pháp lý là theo sự phân công của Luật sư hướng dẫn và phải được sự đồng ý của khách hàng. Luật sư tập sự không được ký vào văn bản tư vấn pháp luật và phải chịu trách nhiệm về chất lượng công việc mà mình thực hiện trước Luật sư hướng dẫn và tổ chức hành nghề Luật sư nơi mình tập sự.
Văn bản pháp luật hiện hành không quy định “người khác” được hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Như vậy có thể thấy, theo quy định mới này, chỉ Luật sư mới được làm dịch vụ pháp lý. Ngoài việc hoạt động dịch vụ pháp lý trong nước, Pháp lệnh Luật sư và Nghị định 94 còn cho phép Luật sư được quyền thực hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài theo sự phân công của Văn phòng Luật sư hoặc Công ty luật hợp danh nơi Luật sư đó tham gia hành nghề. Việc thoả thuận về công việc, mức thù lao trong hợp đồng dịch vụ pháp lý bên ngoài lãnh thổ Việt Nam do các bên thoả thuận nhưng không được trái với Pháp lệnh Luật sư, Nghị định 94 và các quy định pháp luật khác.