Những đặc điểm mới của sự biến đổi về đạo đức, lối sống ở Việt Nam hiện nay
Cũng như tất cả sự vật và hiện tượng khách quan, đạo đức, lối sống luôn luôn vận động, biến đổi. Biến đổi có thể theo chiều hướng phát triển và ngược lại. Nhận thức được các yếu tố và tính chất của nó sẽ giúp cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý, giáo dục và mỗi gia đình có cách hành xử đúng.
Ảnh minh họa
NHỮNG NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
Theo nhận thức chung, đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Nói một cách khái quát, đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội.
Là hệ quả của đạo đức, khái niệm lối sống phản ánh các hoạt động sống cơ bản của con người được vận hành theo một hệ thống những chuẩn mực và giá trị xã hội trong những điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Nói cụ thể hơn, lối sống là phương thức sống của con người trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định, được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như: lao động sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động hằng ngày.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức, lối sống thuộc hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định. Và vì vậy, cũng như tất cả sự vật và hiện tượng khách quan, đạo đức, lối sống luôn luôn vận động, biến đổi. Biến đổi có thể theo chiều hướng phát triển và ngược lại. Biến đổi mang tính “đột phá”, “bước ngoặt” trong quá trình hình thành và phát triển của đạo đức, lối sống là sự hình thành đạo đức cách mạng và lối sống tương ứng với nó.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là: Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư. Đạo đức, lối sống cách mạng được tạo dựng, vun đắp và phát triển trong quá trình đấu tranh xây dựng hình thái kinh tế – xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bên cạnh sự phát triển mang tính dấu mốc lớn, đạo đức, lối sống có những biến đổi theo thời gian và những điều kiện nhất định. Sự biến đổi về đạo đức, lối sống do tác động của những nhân tố chủ yếu sau:
Một là, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, hầu hết mọi người đều thừa nhận toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu. Xu thế này đã được dự báo – đề cập trong một số tác phẩm của các nhà khoa học, trong đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã có những luận giải sâu sắc và toàn diện. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen nhấn mạnh tới tính chất thế giới trong quá trình sản xuất, lưu thông của các nền kinh tế và theo đó, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc về nhiều mặt, cả trong đời sống tinh thần. Dự báo của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về xu thế phát triển của toàn cầu hóa kinh tế đã thực sự trở thành một xu thế phát triển khách quan vào thập niên 80 của thế kỷ XX, với một số nội dung và những nét đặc thù mới do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Hiện nay, toàn cầu hóa với những biểu hiện chủ yếu như: thị trường được mở rộng, giao lưu hàng hóa ngày càng thông thoáng, sự trao đổi hàng hóa trong phạm vi khu vực và quốc tế, giữa các quốc gia, dân tộc; sự ra đời nhiều hình thức đầu tư, liên kết và hợp tác sản xuất. Toàn cầu hóa dẫn đến thế giới gắn bó chặt chẽ lẫn nhau và được gọi là hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong thời đại ngày nay, có thể thấy quá trình hội nhập quốc tế đã phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực, diễn ra trên nhiều cấp độ, sâu sắc và toàn diện.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo ra diện mạo mới của bức tranh toàn cảnh thế giới, vừa có sự hợp tác vừa cạnh tranh với nhau vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Qua đó, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thương mại, hợp tác lao động, thu hút đầu tư, du lịch, văn hóa, giáo dục… tạo cơ hội để các tầng lớp nhân dân tiếp cận tri thức và giá trị tốt đẹp của nhân loại. Mặt khác, trong môi trường toàn cầu hóa – hội nhập quốc tế, các biến động bất lợi cũng tác động không nhỏ đến đời sống xã hội. Các rủi ro, bất ổn về kinh tế, an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội… gây những biến đổi đến đạo đức và lối sống trong xã hội.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường.
Mô hình kinh tế thị trường là bậc thang cao của kinh tế kinh tế hàng hoá. Kinh tế thị trường khẳng định được ưu thế của mình. Nó tạo ra động lực cạnh tranh phát triển và mở rộng quan hệ giữa các quốc gia, trước hết là các quan hệ kinh tế, sau đó tới các quan hệ khác như chính trị, văn hóa… Hệ thống kinh tế thị trường càng phát triển theo hướng mở và đó là môi trường thuận lợi cho quá trình tự nhiên xích lại gần nhau của các cộng đồng dân cư, các thể chế toàn thế giới.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương khai thác lợi thế nền kinh tế thị trường phục vụ mục tiêu cao cả vì hạnh phúc của toàn dân – kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Kinh tế thị trường luôn tồn tại hai mặt đối lập, vừa có ảnh hưởng tích cực, vừa có ảnh hưởng tiêu cực đối với đạo đức, lối sống. Dưới tác động rất lớn của nền kinh tế thị trường, con người với những biểu hiện mang tính tích cực như: Tính quyết đoán, năng động, sáng tạo. Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường có xu hướng vận động tự phát dưới sự tác động của các quy luật thị trường nên dễ nảy sinh những hiện tượng tiêu cực. Sự phân hóa xã hội diễn ra một cách nhanh chóng, sâu sắc, từ đó làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội. Mặt khác, cơ chế thị trường đề cao giá trị đồng tiền, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân… đã và sẽ gây hệ lụy tiêu cực đến đạo đức của xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chưa được hoàn thiện, Việt Nam đã và đang chứng kiến những biến đổi, “xáo động” lớn của kinh tế và tất yếu về xã hội, gây “đảo lộn” về cấu trúc xã hội với tính đa dạng của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm lợi ích, vị thế, lứa tuổi, thế hệ, đi kèm theo những khác biệt về xu hướng, định hướng giá trị và lựa chọn giá trị, trong đó có cả giá trị về đạo đức, lối sống.
Ba là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Theo nhận thức chung, nhân loại đã trải qua bốn cuộc cách mạng trong lĩnh vực khoa học – công nghệ. Mỗi cuộc cách mạng ấy đã làm đảo lộn cấu trúc kinh tế và toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay, thế gới đang chứng kiến một cuộc cách mạng mới – Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được mô tả như là sự ra đời của một loạt các công nghệ mới, kết hợp tất cả các kiến thức trong lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, sinh học và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một mặt tác động trực tiếp vào đời sống xã hội và con người, làm tăng tuổi thọ, sức khoẻ, thể lực, trí lực nối dài và gia tăng gấp nhiều lần năng lực trí tuệ và sức mạnh cơ bắp. Bằng cách gián tiếp hơn, nhưng lại mạnh mẽ hơn, nhanh chóng và sâu rộng hơn, nó tác động đến con người và xã hội thông qua công nghệ. Trong Cách mạng công nghiệp hiện nay, những sản phẩm mới, công nghệ mới được tạo ra với tốc độ nhanh, mang tính cách mạng và được đưa vào sản xuất, tạo nên những thay đổi to tớn, những biến đổi trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ thay đổi chính con người. Nó sẽ làm thay đổi bản sắc văn hóa, cả sự riêng tư, ý thức về sự sở hữu, phương thức tiêu dùng, thời gian dành cho công việc, giải trí và cách thức phát triển sự nghiệp, trau dồi kỹ năng, gặp gỡ mọi người và củng cố các mối quan hệ. Một trong những thách thức mang tính cá thể lớn nhất mà các công nghệ thông tin mang lại là sự riêng tư. Thông tin về cá nhân sẽ dễ dàng để tra cứu và tìm kiếm. Tương tự, các cuộc cách mạng diễn ra trong lĩnh vực công nghệ sinh học và trí thông minh nhân tạo giúp định nghĩa lại con người là gì bằng cách hạ thấp những giới hạn hiện tại về tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức và năng lực. Từ đó, buộc chúng ta phải định hình lại những ranh giới về đạo đức, lối sống trong xã hội.
Bốn là, sự hội nhập, giao lưu văn hóa.
Hội nhập, giao lưu về văn hóa là quá trình trao đổi, chia sẻ, hợp tác những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình này có thể làm biến đổi, loại bỏ những cái cũ, lạc hậu, lỗi thời để thay thế bằng các giá trị mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mặt khác, nó cũng tạo ra không ít sự thách thức đối với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Những giá trị truyền thống văn hóa trong xã hội Việt Nam được hình thành hàng ngàn năm như: Ý thức tự cường, tinh thần đoàn kết dân tộc, lòng nhân ái, khoan dung, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… vừa là cơ sở vừa là thành tố cơ bản hình thành nên bản sắc văn hóa của dân tộc và luôn phát huy có hiệu quả trong suốt chiều dài lịch sử người Việt. Tuy nhiên, quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa đã và sẽ làm mai một dần đi một số giá trị văn hóa dân tộc và xác lập một số giá trị mới. Trong sự tiếp biến văn hóa, các chuẩn mực hành vi, những giá trị xã hội bị xáo trộn và gây nên xung đột giữa các giai tầng xã hội. Người lớn tuổi ngày càng suy giảm khả năng thích nghi với cái hiện đại. Trong khi đó, tuổi trẻ vốn năng động, nhạy cảm với cái mới, cái lạ, có khả năng và hào hứng tiếp thu nhanh chóng những quan niệm mới, lối sống mới.
Cùng với các yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan được đề cập dưới đây sẽ làm cho quá trình biến đổi đạo đức, lối sống theo hướng “thuận – nghịch” và sẽ diễn ra nhanh hay chậm.
Năm là, ý chí của giai cấp cầm quyền
Mỗi giai cấp có hệ ý thức của nó. Mỗi chế độ xã hội có một hệ ý thức thống trị, đồng thời cùng tồn tại nhiều hệ ý thức khác. Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh hệ tư tưởng thống trị, nhiều hệ tư tưởng của giai cấp, tầng lớp bị trị cùng tồn tại với những mức đậm nhạt khác nhau. Để xác lập được địa vị của mình, giai cấp cầm quyền luôn có ý thức xác lập, duy trì hệ tư tưởng và đây là nhân tố chính làm biến đổi hệ giá trị nói chung và đạo đức nói riêng. Nhìn chung, giai cấp cầm quyền đại diện cho tư tưởng tiến bộ, cho lợi ích chung sẽ xây dựng được hệ giá trị tốt đẹp và ngược lại. Và đó chính là bước ngoặt gây nên các đứt gãy của văn hóa nói chung, đạo đức, lối sống nói riêng.
Sáu là, sự tác động của gia đình và xã hội
Trong tiến trình lịch sử và ở hầu hết các quốc gia, gia đình luôn được xem là chiếc nôi hình thành, giáo dục, nuôi dưỡng nhân cách con người. Gia đình trong xã hội hiện đại ngày nay càng có vai trò quan trọng. Ðối với Việt Nam, gia đình luôn là mối quan tâm hàng đầu của mỗi người và xã hội. Gia đình được xem là “tổ ấm”. Xây dựng hạnh phúc gia đình cũng chính là vun đắp và lan tỏa tình yêu thương cho tất cả mọi người. Gia đình mang tính liên kết chặt chẽ, gắn bó, quan hệ máu thịt giữa các thành viên trong gia đình. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam tồn tại và phát triển với những chuẩn mực, giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam, gia đình truyền thống Việt Nam hòa thuận, hiếu thảo, khoan dung, chung thủy. Do đó, gia đình và rộng hơn là cộng đồng dân cư là “pháo đài” trong sự “va chạm” các loại hình đạo đức, lối sống. Nó có thể làm chậm hoặc thúc đẩy nhanh những biến đổi đạo đức, lối sống mỗi người.
Bảy là, sự lựa chọn, tiếp nhận của chủ thể
Văn hóa nói chung, đạo đức, lối sống nói riêng tác động đến mỗi cộng đồng, tầng lớp, các giới và tùy theo đặc điểm riêng, mỗi thành phần ấy có mức độ tiếp nhận khác nhau. Nhìn chung, giới trẻ có độ “nhạy” trong sự biến đổi. Giới trẻ với đặc điểm nổi bật là hướng ngoại và năng động, yêu lý tưởng, không thích bị ràng buộc khuôn mẫu và đôi khi “phá cách”. Chính những đặc điểm đó, giới trẻ rất dễ tiếp thu cái mới và hấp thụ nhanh các ảnh hưởng những chuẩn mực mới. Dễ nhận thấy, sự tiếp thu và biến đổi của giới trẻ trong quá trình giao lưu hội nhập diễn ra nhanh và mạnh hơn những đối tượng khác trong xã hội.
Biến đổi lối sống của con người Việt Nam nói chung và biến đổi về đạo đức, lối sống của giới trẻ hiện nay có thể coi là tổng hợp những biến đổi xã hội dưới tác động của đổi mới, của hội nhập, tác động của nền kinh tế thị trường và ngay cả những nhân tố từ nội tại bên trong chủ thể.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM MỚI CỦA SỰ BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Sự biến đổi của đạo đức, lối sống ở Việt Nam hiện nay mang những đặc điểm mới:
Một là, tính biến đổi nhanh.
Đạo đức là một dạng của ý thức xã hội. So với tồn tại xã hội, ý thức xã hội có “độ trễ” nhất định. Trong các yếu tố của ý thức xã hội, đạo đức có tính “bảo thủ” nhất. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều quan niệm đạo đức có tính bền vững, “ăn sâu” trong mỗi người và cả cộng đồng. Không ít những quan niệm được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Ngày nay, với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, các quan niệm đạo đức đã đang thay đổi nhanh chóng.
Hai là, tính biến đổi sâu rộng.
Những yếu tố khách quan mà nhất là các “động lực” nền kinh tế và tiếp nhận văn hóa bên ngoài, nhiều quan niệm về đạo đức, lối sống đã biến đổi cả về chiều kích lẫn độ sâu. Hầu hết các hành vi của các quan hệ trong gia đình, nơi cư trú, nơi làm việc bị thay đổi và trong đó, không ít vấn đề “quay ngoắt 180 độ”.
Ba là, tính biến đổi khó định hình.
Cũng chính trong quá trình hội nhập quốc tế và “va chạm” giữa các văn hóa, sự tiếp biến, “đứt gãy” của văn hóa nói chung, đạo đức, lối sống nói riêng diễn ra mạnh mẽ và khó lường. Khá nhiều quan niệm về tốt – xấu, đúng – sai bị “đổi ngôi” và khó định hình.
Là một trong những thành tố của ý thức xã hội, đạo đức, lối sống bị biến đổi do những tác động khách quan và chủ quan. Trong quá trình biến đổi ấy, mỗi cộng đồng, tầng lớp, các giới khác nhau có độ trễ hoặc bị “đột biến” với mức độ khác nhau. Nhận thức được các yếu tố tạo nên biến đổi và tính chất của nó sẽ giúp cho các chủ thể mà nhất là cơ quan lãnh đạo, quản lý, cơ quan giáo dục và mỗi gia đình có cách hành xử đúng trong việc giữ gìn và tiếp nhận các giá trị đạo đức, lối sống trong một thế giới “mở” như hiện nay.
NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
Nhận thức được các nhân tố, tính chất và xu hướng biến đổi đạo đức, lối sống có thể đưa đến sự hiểu biết đầy đủ hơn về các giải pháp xây dựng và phát triển đạo đức, lối sống. Các giải pháp ấy phải mang tính đồng bộ, thực hiện kiên trì và liên tục. Sau đây là những nhóm giải pháp chủ yếu:
Một, thể chế hóa các chuẩn mực đạo đức, lối sống.
Một mặt, tiến hành thẩm định các chuẩn mực đạo đức, lối sống có giá trị và mang tính phổ biến trong các cộng đồng dân tộc và mặt khác, nghiên cứu, đánh giá các xu hướng xuất hiện chuẩn mực đạo đức, lối sống mới để luật hóa. Trên cơ sở pháp luật, các cơ quan lãnh đạo và quản lý cấp địa phương ban hành các tiêu chí cụ thể hơn phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi vùng, miền. Bên cạnh tính khuyến khích của đạo đức, luật hóa các chuẩn mực đạo đức, lối sống sẽ là “hành lang” ràng buộc các đối tượng tuân thủ, tạo ra một xã hội thượng tôn pháp luật, tôn trọng các đạo đức, lối sống tốt đẹp.
Hai là, giáo dục làm chuyển hóa và định hình chuẩn mực đạo đức, lối sống.
Chú trọng giáo dục lý tưởng cao đẹp, tình yêu quê hương đất nước, khát vọng sống tốt trong các mối quan hệ với con người và tự nhiên. Đồng thời và quan trọng nhất, việc giáo dục tình yêu lao động và các kỹ năng sống (kỹ năng “mềm”) thích hợp trong thời đại mới cần được đề cao. Các nội dung giáo dục này và các chuẩn mực đạo đức, lối sống mà cộng đồng thừa nhận phải được truyền tải thích hợp trong các bậc học phổ thông và trên mọi phương tiện truyền thông.
Ba là, tạo điều kiện thực hành đạo đức, lối sống.
Xây dựng các định chế, thiết chế, tạo “địa bàn” để luật pháp và các chuẩn mực đạo đức, lối sống được thực thi trong mọi hoạt động của mỗi người, nhất là trong giới trẻ. Ngay từ những năm đầu đời, mỗi hành vi của con người phải được định hướng theo chân, thiện, mỹ. Cách “học ăn, học nói, học gói, học mở” phải được thao tác để trở thành nếp đối với mỗi trẻ. Triết lý của nhà Phật về “Tu hành” rất có ý nghĩa trong thực thi chuẩn mực đạo đức, lối sống.
Bốn là, xây dựng các môi trường lành mạnh.
Các môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội) cần được kiến tạo như một “pháo đài” kiên cố trong việc bảo tồn và phát triển các chuẩn mực đạo đức, lối sống. Dĩ nhiên, gia đình – “tế bào” của xã hội, cần phải được đặc biệt chú trọng xây dựng. Ở đây, các cơ quan có liên nên quan tâm hơn nữa đến việc nghiên cứu các xu hướng biến đổi đối với gia đình trong thời đại mới để có các kiến giải khoa học hơn. Trong việc xây dựng môi trường xã hội, hết sức chú trọng đến việc xây dựng các cộng đồng dân cư ở từng địa bàn cụ thể gắn với các chuẩn mực được cộng đồng dân cư thừa nhận và những tiêu chí thật chất của “gia đình văn hóa” ấp (khóm) văn hóa. Mặt khác, từ cơ quan lãnh đạo và quản lý vĩ mô đến các cấp cơ sở phải tăng cường quản lý và kịp thời đấu tranh, ngăn chặn để loại bỏ các khuynh hướng tư tưởng, sản phẩm văn hóa độc hại và hành vi xấu có thâm nhập, ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi người, nhất là giới trẻ.
Nguyễn Văn Biết/TG