Nhiễm nấm Candida trong thai kỳ: Điều trị bằng cách nào?

Khi mang thai, sự dao động nồng độ nội tiết tố sẽ làm thay đổi độ pH trong âm đạo. Điều này tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của nấm men.

Nội dung chính của bài viết

  • Nhiễm nấm Candida là một dạng nhiễm trùng nấm men xảy ra ở nhiều bộ phận khác nhau trên cơ thể, bao gồm cả âm đạo và âm hộ.
  • Thai phụ thường dễ bị nhiễm nấm Candida là do,sự dao động nồng độ nội tiết tố đã làm thay đổi độ pH trong âm đạo, khiến nấm phát triển.
  • Khi bị nhiễm nấm Candida ở âm đạo, biểu hiện đặc trưng là cảm giác ngứa ngáy ở âm đạo và âm hộ.
  • Ngoài ra, một biểu hiện thường gặp khác là dịch tiết âm đạo màu trắng đục, đặc và vón cục nhưng không có mùi.
  • Nhiễm nấm Candida âm đạo có thể dễ dàng điều trị bằng thuốc trị nấm dạng bôi hoặc viên đặt.
  • Cần giữ cho vùng kín luôn khô thoáng, không ngâm lâu trong nước nóng hay thụt rửa và mặc đồ lót cotton để giảm thiểu nguy cơ nhiễm nấm âm đạo. 

Nhiễm nấm Candida là một dạng nhiễm trùng nấm men xảy ra ở nhiều bộ phận khác nhau trên cơ thể, bao gồm cả âm đạo và âm hộ (vùng bên ngoài âm đạo). Nấm men là một loại nấm. Loại nấm men thường gây ra các bệnh nhiễm trùng ở khu vực vùng kín là Candida albicans, nhưng ngoài ra thủ phạm còn có các loại nấm men khác ví dụ như Candida glabrata và Candida tropicalis.

Cứ 4 phụ nữ thì lại có đến 3 người từng bị nhiễm trùng nấm men một lần trong đời. Có đến 45% phụ nữ gặp phải vấn đề này từ 2 lần trở lên.

Trong thời gian mang thai, nguy cơ nhiễm nấm Candida (và các bệnh nhiễm trùng mà loại nấm này gây ra) thậm chí còn cao hơn. Theo một nghiên cứu, khoảng 20% phụ nữ từng bị nhiễm nấm Candida ở âm đạo. Tỷ lệ này tăng lên đến 30% trong thời gian mang thai. Nấm men sẽ dễ gây nhiễm trùng hơn trong thai kỳ do sự dao động nồng độ nội tiết tố.

Và vì nấm men có thể lan truyền từ mẹ sang con trong khi sinh nên nếu mắc phải vấn đề này thì cần phải điều trị.

Trong âm đạo luôn tồn tại các loại nấm và vi khuẩn ở trạng thái cân bằng. Nhiễm nấm Candida xảy ra khi số lượng nấm tăng cao đột biến so với số lượng vi khuẩn. Các yếu tố phổ biến nhất làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nấm men gồm có:

  • Mang thai
  • Bệnh tiểu đường
  • Sử dụng thuốc tránh thai, thuốc kháng sinh hoặc corticosteroid như prednison (Rayos)
  • Mắc các bệnh làm suy yếu hệ miễn dịch, chẳng hạn như HIV/AIDS

Khi mang thai, sự dao động nồng độ nội tiết tố sẽ làm thay đổi độ pH trong âm đạo. Điều này tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của nấm men.

Khi bị nhiễm nấm Candida ở âm đạo, biểu hiện đặc trưng là cảm giác ngứa ngáy ở âm đạo và âm hộ. Ngoài ra, một biểu hiện thường gặp khác là dịch tiết âm đạo màu trắng đục, đặc và vón cục nhưng không có mùi.

Các triệu chứng khác của nhiễm nấm âm đạo còn có:

  • Đau ở âm đạo hoặc âm hộ
  • Nóng rát khi đi tiểu
  • Đỏ ở âm đạo và âm hộ cũng như là vùng da xung quanh, đôi khi còn xảy ra ở bẹn và đùi

Những triệu chứng này có thể kéo dài trong vài tiếng, vài ngày hoặc vài tuần.

Ở trẻ sơ sinh và phụ nữ có hệ miễn dịch yếu, nhiễm nấm Candida có thể xảy ra ở miệng. Tình trạng này được gọi là bệnh nấm miệng.

Các triệu chứng của nhiễm nấm âm đạo rất giống với triệu chứng của những vấn đề, bệnh lý khác như:

  • Phản ứng dị ứng với các sản phẩm được sử dụng ở vùng kín, chẳng hạn như băng vệ sinh hay xịt khử mùi
  • Bệnh lây truyền qua đường tình dục, ví dụ như chlamydia và lậu
  • Viêm âm đạo do vi khuẩn – cùng là một dạng nhiễm trùng xảy ra ở âm đạo

Bác sĩ sẽ hỏi về các triệu chứng và tiến hành thăm khám lâm sàng. Để xác nhận chẩn đoán, bác sĩ sẽ sử dụng tăm bông vô trùng lấy mẫu dịch tiết âm đạo. Mẫu dịch sẽ được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm sự hiện diện của nấm men gây nhiễm trùng.

Một số trường hợp sẽ cần tiến hành nuôi cấy mẫu dịch tiết âm đạo. Phương pháp này nhằm phân loại các loại nấm men khác, chẳng hạn như C. glabrata và C. tropicalis.

Nhiễm nấm Candida âm đạo có thể dễ dàng điều trị bằng thuốc trị nấm dạng bôi hoặc viên đặt. Các triệu chứng thường giảm sau 7 ngày dùng thuốc. Tuy nhiên, khi mang thai thì nên đi khám bác sĩ, không nên tự mua thuốc điều trị. Khi đi khám, bác sĩ sẽ cần kiểm tra để xác nhận đúng là nhiễm nấm và kê các loại thuốc phù hợp cho phụ nữ mang thai.

Cả thuốc trị nấm đường uống và thuốc dùng tại chỗ đều có thể dùng để trị nhiễm nấm âm đạo ở phụ nữ không mang thai. Tuy nhiên, một số loại thuốc đường uống sẽ không an toàn khi sử dụng trong thai kỳ. Một nghiên cứu vào năm 2016 đã chỉ ra rằng phụ nữ mang thai dùng thuốc trị nấm đường uống fluconazole (Diflucan) sẽ có nguy cơ sảy thai cao hơn. Thuốc trị nấm đường uống còn có thể gây dị tật bẩm sinh cho trẻ.

Một số thuốc trị nấm tại chỗ an toàn cho phụ nữ mang thai gồm có:

Thuốc
Liều dùng

clotrimazole
kem 1%, ngày dùng 1 lần trong 7 đến 14 ngày

miconazole
kem 2%, ngày dùng 1 lần trong 7 ngày

terconazole
kem 0.4%, ngày dùng 1 lần trong 7 ngày

Điều trị nhiễm nấm tái phát

Nhiễm nấm Candida thường dễ tái đi tái lại trong thời gian mang thai. Khi bị nhiễm nấm từ 3 – 4 lần trở lên thì cần thông báo cho bác sĩ để kiểm tra xem có các yếu tố làm tăng nguy cơ ví dụ như tiểu đường hay các bệnh làm suy giảm hệ miễn dịch hay không. Nếu nguyên nhân là do thay đổi nội tiết tố trong khi mang thai thì tình trạng nhiễm trùng sẽ chấm dứt sau khi sinh.

Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc dùng các loại thuốc trị nấm đường uống nhóm azole trong 6 tháng sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm nấm tái đi tái lại. Tuy nhiên, thuốc trị nấm đường uống sẽ không an toàn khi sử dụng trong thai kỳ. Phụ nữ mang thai nên đợi cho đến khi sinh xong mới tiếp tục điều trị.

Ở những phụ nữ không mang thai và có hệ miễn dịch bình thường thì nhiễm trùng nấm men hiếm khi gây ra các biến chứng nghiêm trọng.

Ngay cả khi mang thai, nhiễm trùng nấm men thường không gây hại cho người mẹ. Tuy nhiên, nấm men có thể lây truyền sang em bé trong khi sinh.

Trong hầu hết các trường hợp, trẻ thường bị nhiễm nấm ở miệng hoặc vùng sinh dục. Mặc dù hiếm nhưng nhiễm trùng nấm men ở trẻ sơ sinh có thể trở nên rất nghiêm trọng vì hệ miễn dịch của trẻ còn yếu. Nấm men có thể lan khắp cơ thể và gây ảnh hưởng đến nhiều chức năng khác nhau, ví dụ như hô hấp và nhịp tim. Điều này thường chủ yếu xảy ra ở những trẻ còn có những vấn đề khác làm suy yếu hệ miễn dịch, chẳng hạn như sinh non hoặc bị một bệnh nhiễm trùng tiềm ẩn.

Nhiễm trùng nấm men cũng có thể gây nhiễm trùng trên toàn cơ thể và gây biến chứng nghiêm trọng ở những phụ nữ có hệ miễn dịch yếu do các bệnh như HIV/AIDS.

Có thể giảm nguy cơ nhiễm nấm âm đạo bằng cách:

  • Giữ cho vùng kín luôn khô thoáng
  • Không ngâm lâu trong nước nóng
  • Không dùng các sản phẩm có thể gây kích ứng, dị ứng ví dụ như xịt khử mùi
  • Không thụt rửa
  • Chỉ mặc đồ lót bằng cotton

Mặc dù nhiễm nấm âm đạo không phải là bệnh lây truyền qua đường tình dục nhưng việc quan hệ tình dục có thể làm cho tình trạng trở nên nghiêm trọng hơn và ảnh hưởng cả đến đối phương.