Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn nói chung mà còn là yêu cầu khách quan đối với việc cải tạo xã hội. Vì vậy, nghiên cứu, làm rõ mối quan hệ này góp phần quan trọng khẳng định vị trí, vai trò nguyên tắc cơ bản của triết học Mác – Lênin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.

Thực tiễn là phạm trù đã được đề cập đến trong lịch sử triết học trước Mác. Tuy nhiên, trong các quan niệm ấy, vị trí, vai trò của thực tiễn chưa được hiểu một cách đúng đắn. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước đó về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Tư tưởng đó tiếp tục được Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”(1).

Theo quan điểm của triết học mácxít, thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Quan điểm đó đã chỉ ra rằng thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là những hoạt động vật chất để (phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể luôn hướng vào cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.

Dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị – xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản khác của thực tiễn cũng xuất hiện – đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại.

Quá trình nhận thức trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính hay tư duy trìu tượng là giai đoạn cao của nhận thức, nó là sự phản ánh trìu tượng, khái quát và gián tiếp hiện thực. Nhận thức lý tính được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại và được thể hiện dưới các hình thức là khái niệm, phán đoán và suy luận.

Sự phát triển của nhận thức con người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý luận. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan. Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của quá trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”(2). Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện ở những nội cụ thể sau:

Thứ nhất, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, ràng buộc lẫn nhau, đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định, ngược lại lý luận luôn có tác động trở lại hướng dẫn hoạt động thực tiễn.

Thứ hai, lý luận trở thành khoa học khi gắn liền với thực tiễn. Thực chất nội dung này là sự khẳng định vai trò to lớn của thực tiễn đối với lý luận. Ăngghen nhận xét rằng: “Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn, một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.

Tư tưởng đó được Lênin tiếp tục khẳng định: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”(3). Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chóng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý tính, xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.

Trong quá trình tồn tại, con người không được thế giới đáp ứng thỏa mãn, nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính trong quá trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn cũng đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời phát triển của các ngành khoa học.

Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người dược phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chóng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát triển nói chung.

Lênin đã chỉ ra rằng thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con người nếu không có sự tác động của con người vào đó. Sự tác động của con người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận và từ lý luận lại trở về chỉ đạo thực tiễn.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - Ảnh 1.

Lênin đã chỉ ra rằng thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con người nếu không có sự tác động của con người vào đó.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”(4). Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng, tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối (hay tính xác định) vừa có tính tương đối (hay tính không xác định).

Thứ ba, thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi có lý luận dẫn dắt. Bên cạnh việc đề cao vai trò của thực tiễn đối với lý luận, nguyên tắc cũng chỉ ra vai trò của lý luận đối với thực tiễn thể hiện ở tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó. Hay nói cách khác, bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận sau khi ra đời quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ cho mục tiêu phát triển. Lý luận tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.

Lý luận giúp cho chủ thể hoạt động thực tiễn có những quan niệm khoa học về thế giới. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động, phát triển của sự vật, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn, là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo cho hành động. Lênin viết: Không có lý luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có lý luận tiên phong hướng dẫn thì đảng đó mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất, lý luận có thể dự kiến được sự vận động và phát triển của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người trở lên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, lý luận một khi đã thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất to lớn. Lý luận giúp cho con người nhận thức hệ thống nguyên tắc, phương pháp trong hoạt động nhận thức và thực tiễn; giúp chủ thể hoạt động thực tiễn những mục tiêu cần đạt được trong tình hình cụ thể. Nhờ có lý luận cách mạng mà chủ thể hoạt động thực tiễn có cơ sở hình thành, phát triển nhân cách và nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn. Như vậy, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, cùng với nhận thức được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của lý luận thì chủ thể hoạt động không nên cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.

Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Thước đo trình độ phản ánh của lý luận trước hết ở chỗ lý luận phải giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, do đó, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực tiễn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) V.I.Lênin Toàn tập, tập 18 (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.167.

(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8 (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.497.

(3) V.I.Lênin Toàn tập, tập 29 (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.230.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập 3 (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.10.