Nghiên cứu khoa học

Tóm tắt:

Động cơ phạm tội là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến hành vi phạm tội
của tội phạm về ma túy ở nước ta. Nghiên cứu này được thực hiện trên 2013 khách
thể là phạm nhân

Động cơ phạm tội là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến hành vi phạm tội
của tội phạm về ma túy tại nước ta. Nghiên cứu này được thực hiện trên 203 khách
thể là

phạm nhân phạm tội ma túy đang chấp hành hình phạt tại trại
giam,

phương pháp được sử dụng là trắc
nghiệm nhân cách 16 yếu tố của Cattell và phương pháp điều tra bằng bảng hỏi cá
nhân, đã chỉ rõ:

Số đông người phạm tội về ma túy đều muốn làm giàu nhanh; đa số có cuộc sống
túng bấn, khó khăn về kinh tế, không có việc làm ổn định và có tâm lý lười lao
động.

Từ khóa: Phạm tội ma túy; động cơ; ma túy; phạm tội; tâm lý tội phạm.

1.

Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây, cùng với nền kinh tế thị trường và sự toàn cầu hóa về
mọi mặt đời sống xã hội, tình hình tội phạm ở Việt Nam và trên thế giới ngày
càng gia tăng phức tạp. Tình trạng trên luôn đặt ra câu hỏi: Tội phạm bắt nguồn
từ đâu? Tại sao lại gia tăng? Động cơ nào – nguyên nhân nào thúc đẩy con người
phạm tội mà không sợ sự trừng phạt của pháp luật, của xã hội loài
người? Nghiên cứu động cơ phạm tội là một
trong những vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong cả
công tác phòng chống và xét xử tội phạm hiện nay.

2.

Một số vấn đề cơ bản về động cơ

2.1.Khái niệm động cơ

Trong tâm lý học có rất nhiều quan niệm khác nhau về động cơ hoạt động của con
người, song điểm chung thống nhất trong cách nhìn nhận về hiện tượng tâm lí này
là xem động cơ là sự định hướng, kích thích, thúc đẩy và duy trì hành vi, hoạt
động của con người. Trên cơ sở phân tích các quan niệm khác nhau về động cơ,
chúng tôi cho rằng: “Động cơ là yếu tố
tâm lí phản án đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, nó định
hướng, thức đẩy và duy trì hoạt động của chủ thể nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó

[1].

2.2.Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu động cơ

Theo quan điểm của

AbrahamMaslow
về động cơ: Ông đưa ra một hệ các thứ bậc nhu cầu được sắp xếp từ các nhu cầu
sinh tồn cơ bản nhất đến những nhu cầu mang tính người hơn như các như cầu mang
tính nhận thức, xã hội, thẩm mỹ… Những động cơ đặt biệt của con người đã được
nhận diện bằng các kỹ thuật phóng chiếu trong đó các đối tượng phóng chiếu những
nhu cầu mình lên các bức tranh [4]. Như vậy, theo Maslow thì động cơ được hiểu
như là nhu cầu, động cơ cũng mang tính thứ bậc, có cả động cơ thuần thúy sinh
học và động cơ mang tính văn hóa – xã hội – tính người…

Theo Leonchive (nhà tâm lý học Xô Viết) ông cho rằng động cơ chỉ xuất hiện trong
hoạt động và nó nằm trong bản thân của khách thể hoạt động. Cũng theo ông, hoạt
động luôn hướng vào động cơ(nằm trong đối tượng), đó là mục đích chung, mục đích
cuối cùng của hoạt động [4].

Theo tâm lý học Mac_xit xem con người là sản phẩm lịch sử, xã hội, là thực thể
mang bản chất xã hội bao gồm những phẩm chất, những thuộc tính có ý nghĩa được
hình thành trong quá trình lao động (hoạt động sản xuất) và do kết quả của sự
tác động qua lại giữa người với người trong xã hội. Ở đây không
quá đề cao mặt xã hội cũng không phủ nhận
yếu tố sinh học của con người. C. Marx đã chỉ ra rằng : “con người là một thực
thể tự nhiên trực tiếp. Với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người
được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống trở thành thực thể tự nhiên
hoạt động”.

Trong luận cương về Feuerbach, Marx đề cập bản chất con người không phải cái gì
trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Và nếu con người có xác mà
không có hồn thì đâu còn là con người! Và ngay cả người bình thường thì cuộc
sống bản năng cũng được ý thức hóa [5].

Con người không phải là cái túi đựng đầy phản xạ và hoạt động, không phải là
dòng phản ứng, cử động sống mà là một dòng hoạt động. Trong đó bao gồm cả dòng
tư tưởng, dòng ý thức, đơn vị cuộc sống là từng hoạt động cụ thể [5]. Như vậy
một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm mục đích thỏa mãn
nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là cụ thể hóa nhu cầu của chủ
thế. Nói đơn giản hơn, hoạt động bao gồm cả hành vi, lẫn tâm lý, ý thức, công
việc chân tay và công việc trí óc. Như vậy trong khi tạo ra và chiếm lĩnh các
quan hệ xã hội, con người hình thành nên bộ mặt tâm lý, hình thành động cơ.

Như đã trình bày trên, ta thấy rằng khi nói đến động cơ là phải xét đến hoạt
động. Động cơ là tiền đề, điều kiện đầy đủ nhất của hoạt động. Không có động cơ
sẽ không có hoạt động của con người, động cơ đóng vai trò thúc đẩy, duy trì hoạt
động, động cơ là mục đích cuối cùng của hoạt động.

2.3. Động cơ phạm tội

Như đã đề cập đến khái niệm động cơ, ta điều hiểu rằng động cơ là yếu tố thúc
đẩy, đóng vai trò là đích cuối cùng của hoạt động, giúp duy trì hoạt động trong
suốt quá trình hoạt động của mình. Động cơ được hình thành trên cơ sở nhu cầu
của con người, khi nhu cầu của con người đã được nhận thức đầy đủ và có khả năng
thực hiện thì nó trở thành động cơ.

Nói đến động cơ và hoạt động thì không thể bỏ qua hành vi của con người. Hành vi
là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan
dưới hình thức cụ thể hóa nhằm đạt được những mục đích có chủ định và mong muốn.
Quá trình thực hiện tội phạm cũng là một hoạt động của kẻ phạm tội mà ở đó động
cơ thúc đẩy được gọi là động cơ phạm tội. Động cơ phạm tội theo tâm lý học pháp
lý là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.
Trong trường hợp cố ý phạm tội thì bao giờ hành vi của người phạm tội cũng được
thúc đẩy bởi động cơ phạm tội, chỉ những trường hợp phạm tội do vô ý, cẩu thả
hay quá tự tin mới không có động cơ phạm tội thúc đẩy.

Hành vi phạm tội ở đây được hiểu là mặt khách quan và chủ quan thỏa mãn các dấu
hiệu cấu thành tội phạm. Trong mặt khách quan của tội phạm hành vi khách quan là
biểu hiện cơ bản. Không thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng như những biểu
hiện khách quan khác như công cụ, phương tiện phạm tội, địa điểm, thời
gian…khi không có hành vi khách quan, những biểu hiện về mặt chủ quan là lỗi,
mục đích, động cơ phạm tội luôn gắn với hành vi khách quan. Hành vi phạm tội
được biểu hiện là hành vi có lỗi, là thể thống nhất giữa hành vi khách quan (gây
hại) và mặt chủ quan (có lỗi). Việc thực hiện hành vi phạm tội này trở thành tội
phạm. Như vậy, động cơ có phạm tội thuộc mặt chủ quan của hành vi, thúc đẩy hoạt
động phạm tội đạt mục đích.

Thực tế cho thấy, hành vi phạm tội diễn ra đa dạng và phức tạp. Hành vi phạm tội
là hoạt động tâm lý của người phạm tội, thể hiện trong thực tiễn khách quan. Và
khi thực hiện hành vi phạm tội thì bao giờ cũng có sự tham gia của nhận thức,
cảm xúc, ý chí và nhu cầu của người phạm tội. Nhận thức giúp con người xác định
được mục tiêu cần hướng tới, cảm xúc làm cho họ gắn với mục tiêu hơn, ý chí giúp
họ vượt qua khó khăn trong trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, còn nhu
cầu là nguồn gốc bên trong tạo thành động cơ thúc đẩy người phạm tội 
thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi 
phạm tội là kết quả tác động của cá nhân người phạm tội với môi trường,
hay nói cách khác khi nói đến nguyên nhân dẫn người phạm tội đến việc thực hiện
tội phạm ma túy là nói đến nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.

2.4. Động cơ của người phạm tội ma túy ở Việt Nam

Ở Việt Nam, đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy và các tội phạm về ma túy trong
nhiều năm qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên,
tệ nạn ma túy và các tội phạm về ma túy ngày càng diễn ra phức tạp. Từ chỗ chủ
yếu có từ các nguồn trong nước, những năm gần đây, ma túy từ nước ngoài thẩm lậu
vào Việt Nam ngày càng tăng. Việt Nam không chỉ là địa bàn tiêu thụ, mà đã biến
thành nơi trung chuyển ma túy và hoạt động buôn lậu ma túy. Bên cạnh đó, đã xuất
hiện tình trạng sản xuất và điều chế trái phép chất ma túy ở trong nước.

Tìm hiểu về động cơ của người phạm tội ma túy, chúng ta nên bắt đầu từ đặc điểm
siêu lợi nhuận của nhóm tội ma túy, đây là điều không ai có thể phủ nhận được.
Khó có tội phạm nào, thậm chí ngành kinh tế nào mang lại lợi nhuận nhanh và
nhiều như tội phạm về ma túy. Xuất phát từ luận điểm trên, chúng tôi đi từ giải
thuyết nghiên cứu cho rằng:  Số
đông người phạm tội về ma túy họ đều muốn làm giàu nhanh, họ có cuộc sống túng
bấn, khó khăn về kinh tế, không có việc làm ổn định và có tâm lý lười lao động.

Bài viết này là kết quả khảo sát trên 203
phạm nhân phạm tội túy đang chấp hành án phạt tại trại giam Phú Sơn 4 Tổng cục
VIII Bộ công an.

Thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

như: Trắc nghiệm nhân cách 16 yếu tố của Cattell và phương pháp điều tra bằng
bảng hỏi cá nhân, bên cạnh đó tác giả sử dụng thêm phương pháp văn bản và tài
liệu. Cách tính điểm số trong bảng anket được tác giả tính như sau:

Bảng hỏi cá nhân chủ yếu bao gồm những mệnh đề có tính nhận định và đều có các
điểm số như nhau. Khách thể phải đánh giá các nhận định đó trong trường hợp cụ
thể của mình và các lựa chọn sẽ được tính điểm. Cụ thể, mỗi mệnh đề có 3 phương
án trả lời ứng với 3 điểm như sau:

+ Mức độ 1: Mức độ ít ảnh hưởng: 1 ≤ ĐTB ≤ 1,5

+ Mức độ 2: Mức độ ảnh hưởng: 1,5 ≤ ĐTB ≤ 2,5

+ Mức độ 3: Mức độ rất ảnh hưởng: 2,5 ≤ ĐTB ≤ 3

Số liệu thu được sau điều tra chính thức được xử lý bằng chương trình phần mềm
thống kê SPSS dùng trong môi trường Window, phiên bản 11.5. Các thông số và phép
thống kê được dùng trong nghiên cứu là phân tích thống kê mô tả và phân tích
thống kê suy luận.

* Phân tích thống kê mô tả

Trong phần phân tích mô tả sử dụng các chỉ số sau:

– Điểm trung bình cộng (mean) được dùng tính điểm đạt được của từng mệnh đề và
của từng yếu tố.

– Điểm lệch chuẩn (stadard deviation) được dùng để mô tả mức độ phân tán hay mức
độ tập trung của các câu trả lời của mẫu.

– Tần xuất và chỉ số phần trăm các phương án trả lời của các câu hỏi đóng và các
câu hỏi  mở.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: một số đặc điểm nhân cách của phạm nhân phạm
tội ma túy.

Khách thể nghiên cứu là phạm nhân phạm tội ma túy đang chấp hành hình phạt tại
trại giam Phú Sơn 4. Số phiếu điều tra được phát ra là 203 phiếu, Sự phân bố
khách thể nghiên cứu phạm nhân phạm tội ma túy trong khảo sát thực tiễn được
trình bày tóm tắt ở bảng sau:

Động cơ là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu hoặc đạt tới
một mục đích nào đó. Cá nhân thực hiện hành vi phạm tội bao giờ cũng có động cơ
nhất định thúc đẩy. Không có động cơ tâm lý thúc đẩy thì không thể có hành vi
phạm tội. Động cơ của hành vi phạm tội là nguyên nhân tâm lý bên trong thúc đẩy
cá nhân thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ được hình thành trên cơ sở nhu cầu,
được chủ thể nhận thức và đánh giá có khả năng thực hiện được. Động cơ phạm tội
thường xuất phát từ những nhu cầu có tính nhỏ nhen, hẹp hỏi hoặc thực dụng, đồi
bại…

Phần lớn người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy trong số khách thể nghiên
cứu họ đều mua bán trái phép chất ma túy với mục đích vật chất, tiền bạc. Không
ai phủ nhận được đặc điểm siêu lợi nhuận của nhóm tội phạm ma túy. Vì thế, họat
động này là hoạt động chủ đạo, tác động đến đời sống tâm lý và sự phát triển
hình thành nhân cách của họ theo hướng lệch chuẩn. Các động cơ chủ yếu của họ
cũng có nhiều điểm khác biệt, nhằm nhiều mục đích khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là
mục đích kiếm tiền. Do có ý đồ phạm tội (Nhu
cầu + phương thức thỏa mãn trái pháp luật) những người phạm tội tìm đối tượng có
thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng hành vi phạm tội. Điều mà người phạm
tội quan tâm trước tiên đó là mục tiêu hành động, cụ thể là: làm thế nào để thực
hiện trót lọt việc mua bán trái phép chất ma túy. Động cơ phạm tội được hình
thành, thúc đẩy hành vi phạm tội của cá nhân, bao giờ cũng có sự thống nhất giữa
hai loại yếu tố tâm lý: kích thích (nhu cầu, hứng thu, xúc cảm, tình cảm, thói
quen) và điều chỉnh (quan điểm, quan niệm, sự hiểu biết…). Khi hai loại yếu tố
này còn có sự mâu thuẫn với nhau, nghĩa là còn diễn ra sự đấu tranh động cơ, qua
trình suy tính, phân tích, so sánh để lựa chọn quyết định nên hay không nên thực
hiện hành vi phạm tội.

STT

Động cơ

Mức độ

ĐTB

ĐLC

Rất ảnh hưởng

Ảnh hưởng một phần

Không ảnh hưởng

%

%

%

1

Có tiền tiêu xài hàng ngày

67.0

25.1

7.9

2.59

0.63

2

Hỗ trợ gia đình

26.1

58.1

15.8

2.10

0.40

3

Có tiền sử dụng ma túy

36.0

49.3

14.8

2.21

0.48

4

Tích lũy vốn làm ăn

41.4

27.1

31.5

2.09

0.85

5

Muốn giàu nhanh không phải lao động

75.9

18.2

5.9

2.69

0.57

6

Muốn thoát khỏi cảnh túng quẫn

42.4

38.4

19.2

2.23

0.75

Tổng

2.31

0.53