NHANQUYEN.VN & DANQUYEN.VN

……………

CHƯƠNG II

 KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

 

2.1. Khái niệm quyền con người

Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố). Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.

Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.

Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên (natural rights).

Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.

Liên quan đến khái niệm trên, cũng cần lưu ý rằng thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt) hoặc nhân quyền (theo Hán – Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, ‘nhân quyền’ chính là ‘quyền con người’. Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về quyền con người.

2.2. Nguồn gốc của quyền con người

Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào; và không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.

Ngược lại với học thuyết về quyền tự nhiên là học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights), trong đó cho rằng các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa…của các xã hội. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền pháp lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị  (culturally and politically relative).

 Hai học giả tiêu biểu cho học thuyết về quyền pháp lý có thể kể là Edmund Burke (1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Edmund Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (Reflections on the Revolution in France, 1770) và Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng (Critique of the Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843) cùng cho rằng ý tưởng về các quyền tự nhiên là vô nghĩa (nonsense upon stilts, và chẳng có quyền nào lại không thể chuyển nhượng được (inalienable). Trong khi đó, học thuyết về quyền tự nhiên có vẻ được đề cập sớm hơn và bởi nhiều học giả hơn. Từ thời Hy lạp cổ đại, nhà triết học Zeno (333-264 TCN) đã phát biểu rằng, không ai sinh ra đã là một nô lệ hết cả, địa vị nô lệ là do họ bị tước đoạt tự do vốn có của con người. Rõ ràng ở đây Zeno đã đề cập đến quyền là một người tự do với ý nghĩa là một quyền bẩm sinh của con người. Tư tưởng này sau đó được nhiều triết gia tái khẳng định và phát triển, trong đó tiêu biểu nhất là Thomas Hobbes (1588–1679), John Locke (1632-1704) và Thomas Paine (1731–1809). Thomas Hobbes cho rằng quyền tự nhiên cốt yếu của con người là “được sử dụng quyền lực của chính mình để bảo đảm cuộc sống của bản thân mình, và do đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý…”[7] Trong các tác phẩm của mình[8], John Locke cho rằng các chính phủ chẳng qua chỉ là một dạng ‘khế ước xã hội’ giữa những kẻ cai trị và những người bị trị, trong đó những người bị trị (đa số công dân) tự nguyện ký vào bản khế ước này với kỳ vọng và mong muốn sử dụng chính phủ như là một phương tiện để bảo vệ các ‘quyền tự nhiên’ của họ chứ không phải để ban phát và quy định các quyền cho họ. Từ cách tiếp cận đó, John Locke cho rằng các chính phủ chỉ có thể ‘chính danh’ hay ‘hợp pháp’ khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền bẩm sinh, vốn có của công dân…[9]Còn Thomas Paine, trong tác phẩm nổi tiếng Các quyền của con người (Rights of Man,1791) thì nhấn mạnh rằng các quyền không thể được ban phát bởi bất kỳ chính phủ nào, bởi lẽ điều đó đồng thời cho phép các chính phủ được rút lại các quyền ấy theo ý chí của họ…Như thế, Thomas Paine đã gián tiếp khẳng định rằng các quyền của con người là những giá trị tự nhiên.

Trên đây là những miêu tả khái quát hai học thuyết về nguồn gốc tự nhiên và pháp định của quyền con người. Cho đến ngày nay, cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai học thuyết này vẫn còn tiếp tục. Nhân loại vẫn đang bị chia rẽ bởi vấn đề này. Việc phân định tính chất đúng, sai, hợp lý và không hợp lý của hai học thuyết này là không đơn giản do chúng liên quan đến một phạm vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp lý…Mặc dù vậy, dường như quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ lý thuyết nào đều không phù hợp, bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người là các quyền pháp lý, thì trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và một số văn kiện pháp luật ở một số quốc gia, quyền con người được khẳng định một cách rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể chuyển nhượng được của các cá nhân.

2.3. Tính chất của quyền con người

Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như  sau:

            2.3.1. Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân…Liên quan đến tính chất này, cũng cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người.

            2.3.2.Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước quyền tự do.

            2.3.3.Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.

Tuy nhiên, liên quan đến tính chất không thể phân chia của quyền con người, cần chú ý là trong thực tế, tùy những bối cảnh cụ thể và với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những cơ sở và yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế. Hoặc ở phạm vi rộng hơn, các Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và Công ước về quyền trẻ em (CRC) đặt ra một số quyền ưu tiên cần được bảo đảm với phụ nữ, trẻ em. Những ưu tiên như vậy không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn, mà là bởi các quyền đó trong thực tế thường bị bỏ qua, có nguy cơ bị đe doạ hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác.

2.3.4.Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.

Thực tế cho thấy, trong hầu hết các trường hợp, rất khó, thậm chí là không thể thực sự thành công trong việc bảo đảm riêng một quyền con người nào đó mà bỏ qua các quyền khác. Đơn cử, để thực hiện tốt các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền chính trị cơ bản), cần bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng…vì nếu không, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ.

Trong một cuộc khảo sát gần đây do CNN – một trong các cơ quan truyền thông nổi tiếng nhất thế giới – tiến hành, quyền con người được xem là một trong mười phát minh làm thay đổi thế giới (cùng với nông nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, mạng thông tin toàn cầu (world wide web), xà phòng, số không, và lực hấp dẫn) – CNN: “Ten ideas that changed the world”, 2005.

Xem John Locke: An Essay Concerning Human Understanding, 1690; Second Tract of Government, 1662; Questions Concerning the Law of Nature, 1664.

Ý tưởng này sau đó được Thomas Jefferson tái khẳng định và phát triển trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776). Bản Tuyên ngôn này đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập các chính phủ dân chủ, theo đó, các chính phủ trong thể chế dân chủ không phải được lập ra để ban phát các quyền và tự do cho người dân, mà để bảo vệ các quyền tự do mà mọi người dân vốn có và hiển nhiên phải có do tư cách con người của họ.

CHƯƠNG III

KHÁI QUÁT LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

 

3.1. Khái niệm, vị trí, đối tượng, phương pháp điều chỉnh và nguồn của luật quốc tế về quyền con người

3.1.1. Khái niệm luật quốc tế về quyền con người

Có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về luật quốc tế về quyền con người (international human rights law), tuy nhiên, từ góc độ pháp lý, có thể hiểu đây là một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại.

Về mặt hình thức, luật quốc tế về quyền con người chủ yếu được thể hiện trong hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế về vấn đề này, kể cả những văn kiện mang tính ràng buộc (các công ước, nghị định thư) và các văn kiện không mang tính ràng buộc (các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, hướng dẫn…), trong đó bao gồm cả các văn kiện có hiệu lực toàn cầu và khu vực.

Cần lưu ý là khái niệm luật quốc tế về quyền con người hẹp hơn khái niệm luật về quyền con người (human rights law). Cụ thể, trong khi luật quốc tế về quyền con người chỉ bao hàm các văn kiện pháp lý quốc tế (toàn cầu và khu vực) thì luật về quyền con người bao hàm cả các văn kiện pháp lý quốc tế và quốc gia (national hoặc domestic law) về quyền con người.

3.1.2.Vị trí của luật quốc tế về quyền con người

Xác định vị trí của luật quốc tế về quyền con người chính là xác định chỗ đứng của ngành luật này trong hệ thống luật quốc tế nói chung.

Luật quốc tế về quyền con người là một ngành luật nằm trong hệ thống luật quốc tế chung (hay còn gọi là công pháp quốc tế, public international law) cùng với các ngành luật quốc tế khác như luật nhân đạo quốc tế, luật hình sự quốc tế, luật biển quốc tế, luật hàng không quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự, luật tổ chức quốc tế…

Sở dĩ luật quốc tế về quyền con người có vị trí là một ngành luật trong hệ thống luật quốc tế chung là bởi hai khía cạnh cơ bản sau đây:

Thứ nhất, luật quốc tế về quyền con người mở rộng phạm vi chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế. Trước đây, luật quốc tế chỉ điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế, tuy nhiên, hiện nay, cùng với sự ra đời của luật quốc tế về quyền con người, mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế vẫn là các quốc gia và tổ chức quốc tế nhưng trong một số bối cảnh, luật quốc tế còn điều chỉnh cả mối quan hệ giữa các cá nhân và các nhà nước liên quan đến các quyền và tự do cá nhân mà đã được luật quốc tế ghi nhận và bảo đảm. Khác với luật quốc tế truyền thống, trong thế giới ngày nay, các cá nhân có các quyền và nghĩa vụ chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế. Cá nhân ngày càng được thừa nhận rộng rãi là một chủ thể của công pháp quốc tế hiện đại.[1]

Thứ hai, luật quốc tế về quyền con người làm thay đổi quan niệm truyền thống về tính bất khả xâm phạm về phương diện đối nội của chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế. Trong luật quốc tế trước đây, về phương diện đối nội, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền toàn vẹn và bất khả xâm phạm của các nhà nước được tự do hành động trong đối xử với công dân và xử lý các công việc nội bộ của nước mình. Tuy nhiên, với sự ra đời của luật quốc tế về quyền con người, quan niệm này đã thay đổi. Hiện nay, mặc dù các nhà nước vẫn có quyền đầu tiên và vai trò hàng đầu trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến công việc nội bộ và công dân của nước mình, song trong nhiều bối cảnh, quyền hành động của nhà nước với các công dân không phải là một quyền tuyệt đối. Nói cách khác, với sự ra đời của luật quốc tế về quyền con người, các nhà nước chịu những ràng buộc và giới hạn nhất định trong việc đối xử với công dân của nước mình. Trong mối quan hệ với công dân, các nhà nước hiện đại không chỉ phải tuân thủ những quy định trong pháp luật do chính mình đề ra, mà còn phải tuân thủ những tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người mà mình đã tự nguyện tuân thủ (qua việc tham gia các điều ước quốc tế về vấn đề này) và buộc phải tuân thủ (các tập quán quốc tế về quyền con người). Việc một nhà nước vi phạm các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người trong quan hệ với các công dân hiện sẽ bị coi là sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của nhà nước đó.

 Thực tế cho thấy, cả việc mở rộng chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế và việc bị hạn chế chủ quyền đối nội đều không phải là những điều được tất cả chính phủ trên thế giới dễ dàng chấp nhận. Điều này giải thích tại sao quyền con người đã, đang và sẽ còn là một chủ đề nhạy cảm ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, luật quốc tế về quyền con người là một thực tế khách quan và là một sự phát triển mang tính quy luật trong lịch sử phát triển của loài người. Nó phản ánh và thúc đẩy tính nhân văn và tính dân chủ của các thể chế xã hội. Vì vậy, cho dù luật quốc tế về quyền con người có thể bị phản đối, một phần hay toàn bộ, bởi một số chính phủ,  ngành luật này đã, đang và sẽ còn phát triển.

3.1.3. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật quốc tế về quyền con người

 Là một ngành luật quốc tế độc lập nằm trong hệ thống luật quốc tế chung, luật quốc tế về quyền con người có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.

Xét đối tượng điều chỉnh, như đã đề cập ở mục trên, về cơ bản, luật quốc tế về quyền con người điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể truyền thống của luật quốc tế chung (các nhà nước và tổ chức quốc tế) trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở mọi cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, luật quốc tế về quyền con người điều chỉnh cả mối quan hệ giữa các nhà nước và  cá nhân công dân liên quan đến việc bảo đảm thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Có thể thấy rõ điều này khi xem xét các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, cụ thể khi Hội đồng Quyền con người của Liên hợp quốc và các ủy ban công ước xem xét đơn khiếu nại của các cá nhân cho rằng họ là nạn nhân của những hành động vi phạm quyền con người do các chính phủ của họ gây ra. Tuy nhiên, dẫn chứng có sức nặng nhất cho quan điểm này là việc các tòa án quốc tế về quyền con người  (ví dụ, Tòa án quyền con người châu Âu) thụ lý và xét xử những cáo buộc vi phạm quyền con người mà trong đó nguyên đơn là các cá nhân công dân và bị đơn là các chính phủ của họ.

Xét phương pháp điều chỉnh, bên cạnh việc xác định các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người, luật quốc tế thiết lập một cơ chế và bộ máy phức tạp để bảo đảm các tiêu chuẩn đó được tất cả các quốc gia tuân thủ (chi tiết về vấn đề này xem chương VII). Tuy nhiên, theo nhận định của hầu hết các chuyên gia, hiện tại vẫn chưa có một cơ chế nào thực sự hiệu quả trong việc bảo đảm thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Về cơ bản, luật quốc tế về quyền con người hiện vẫn áp dụng những phương pháp điều chỉnh chung của luật quốc tế trong đó đặt trọng tâm vào các biện pháp vận động, gây sức ép quốc tế. Các biện pháp cưỡng chế (trừng phạt về quân sự, ngoại giao, kinh tế) mặc dù về nguyên tắc có thể sử dụng nhưng rất ít khi được áp dụng do những phức tạp chung trong quan hệ quốc tế. Xét ở khía cạnh phương pháp điều chỉnh, điểm đặc trưng nhất của luật quốc tế về quyền con người so với nhiều ngành luật quốc tế khác có lẽ là vấn đề thẩm quyền tài phán chung trong việc điều tra, truy tố và xét xử những kẻ phạm các tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại…mà thông thường gắn liền hoặc liên quan mật thiết đến những vi phạm quyền con người nghiêm trọng.

 3.1.4. Nguồn của luật quốc tế về quyền con người

Mặc dù vẫn còn những tranh cãi nhất định, song quan niệm chung cho rằng, nguồn của luật quốc tế nói chung, trong đó bao gồm luật quốc tế về quyền con người, bao gồm: (i) Các điều ước quốc tế (chung hoặc riêng); (ii) Các tập quán quốc tế; (iii) Các nguyên tắc pháp luật chung được các dân tộc văn minh thừa nhận (iv) Các phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế và quan điểm của các chuyên gia pháp luật có uy tín cao.

Xét riêng với luật quốc tế về quyền con người, những nguồn cụ thể sau đây thường được viện dẫn khi giải thích, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và vận động về quyền con người:

·        Các điều ước quốc tế (công ước, nghị định thư, có hiệu lực toàn cầu hay khu vực) về quyền con người do các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và thành viên của các tổ chức liên chính phủ khác thông qua. Đây là những văn kiện có hiệu lực ràng buộc với các quốc gia đã tham gia.

·        Các nghị quyết có liên quan đến vấn đề quyền con người do các cơ quan chính và cơ quan giúp việc của Liên hợp quốc thông qua. Trong số này, chỉ có các nghị quyết của Hội đồng Bảo an là có hiệu lực pháp lý bắt buộc.

·        Các văn kiện quốc tế khác về quyền con người (các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, nguyên tắc, hướng dẫn…) do Liên hợp quốc và các tổ chức liên chính phủ khác thông qua. Hầu hết các văn kiện dạng này không có hiệu lực ràng buộc pháp lý với các quốc gia, tuy nhiên, có một số văn kiện, cụ thể như UDHR, được xem là luật tập quán quốc tế, và do đó, có hiệu lực như các điều ước quốc tế.

·        Những bình luận, khuyến nghị chung (với mọi quốc gia) và những kết luận khuyến nghị (với những quốc gia cụ thể) do ủy ban giám sát các công ước quốc tế về quyền con người đưa ra trong quá trình xem xét báo cáo của các quốc gia về việc thực hiện những công ước này, cũng như trong việc xem xét các đơn khiếu nại về việc vi phạm quyền con người của các cá nhân, nhóm cá nhân. Mặc dù về mặt pháp lý, những tài liệu dạng này chỉ có tính chất khuyến nghị với các quốc gia, song trên thực tế, chúng được xem là những ý kiến chính thức giải thích nội dung của các điều ước quốc tế về quyền con người và thường được các quốc gia tôn trọng, tuân thủ.

·        Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế và một số tòa án khu vực về quyền con người (đặc biệt là Tòa án quyền con người châu Âu).

·        Quan điểm của các chuyên gia có uy tín cao về quyền con người (được thể hiện trong các sách và tài liệu chuyên khảo được thường xuyên trích dẫn).

3.2. Mối quan hệ giữa luật quốc tế về quyền con người và pháp luật quốc gia

Về cơ bản, mối quan hệ giữa luật quốc tế về quyền con người và pháp luật quốc gia cũng là mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung với pháp luật quốc gia. Liên quan đến vấn đề này, quan điểm phổ biến cho rằng, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống khác nhau nhưng không đối lập mà có mối quan hệ, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cũng phát triển. Pháp luật quốc tế có thể tác động, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia trong khi pháp luật quốc gia đóng vai trò là phương tiện truyền tải và  điều kiện đảm bảo cho pháp luật quốc tế được thực hiện trên thực tế.

Xét mối quan hệ cụ thể giữa pháp luật quốc tế về quyền con người và pháp luật quốc gia, sự tương tác thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, trong thời kỳ đầu, pháp luật quốc gia, đặc biệt trong những thế kỷ XVIII, XIX, là nền tảng thúc đẩy quá trình hình thành và pháp triển của pháp luật quốc tế về quyền con người. Thực tế cho thấy, các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những văn bản pháp luật quốc gia nổi tiếng thế giới như Hiến chương Magna Carta của nước Anh, Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và dân quyền của nước Pháp…mà trong đó chứa đựng những quy phạm rất tiến bộ, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là những giá trị phổ biến, chung cho toàn nhân loại, vượt ra khỏi phạm vi mọi biên giới quốc gia. Cụ thể, nhiều nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về quyền con người  như nguyên tắc về bình đẳng, tự do, suy đoán vô tội,  xét xử công bằng; quyền dân tộc tự quyết…đều xuất phát từ pháp luật quốc gia.

Thứ hai, pháp luật quốc tế về quyền con người tác động, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia về quyền con người. Sự hình thành và phát triển của hệ thống văn kiện pháp luật quốc tế về quyền con người kể khi Liên hợp quốc được thành lập đã đồng thời thúc đẩy quá trình pháp điển hóa các quyền  con người vào hệ thống pháp luật quốc gia. Trong hơn một nửa thế kỷ qua, hệ thống pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã được sửa đổi, bổ sung một cách đáng kể theo hướng làm hài hòa với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.

Thứ ba, pháp luật quốc gia là phương tiện truyền tải pháp luật quốc tế về quyền con người, là điều kiện đảm bảo cho pháp luật quốc tế về quyền con người được thực hiện. Thông thường pháp luật quốc tế không  được áp dụng trực tiếp bởi tòa án của các quốc gia. Để pháp luật quốc tế được thực thi trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, thông thường các nhà nước phải ‘nội luật hoá’ các quy phạm pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật nước mình, tức là sửa đổi hoặc bổ sung hệ thống pháp luật nước mình để làm hài hòa với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp pháp luật quốc gia chưa hài hòa với một điều ước quốc tế về quyền con người mà quốc gia đó là thành viên thì hầu hết các quốc gia đặt sự ưu tiên áp dụng với điều ước quốc tế. Đây cũng chính là một nguyên tắc cơ bản (nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế – pacta sunt servanda) được nêu trong Công ước Vienna về Luật Điều ước năm 1969.

Về vấn đề này, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam cũng xác định, trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế (Điều 6, Khoản 1).

……………