Một số vấn đề về kỷ luật nhà nước trong thực thi công vụ ở Việt Nam

Kỷ luật là yếu tố, phương tiện tạo nên sức mạnh thống nhất cũng như bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước một cách hiệu lực, hiệu quả. Bài viết đề cập một số vấn đề về nhận thức; thực trạng và các giải pháp nhằm tiếp tục tăng cường kỷ luật nhà nước trong thực thi công vụ ở Việt Nam.

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thời hiệu xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức (sáng 21/10/2022).

Nhận thức chung về công vụ nhà nước và kỷ luật nhà nước  

“Công vụ” là từ chỉ “việc công”(1). “Công” là từ được hiểu theo nhiều nghĩa, nhưng liên quan đến khái niệm “công vụ” thì từ “công” có hai nghĩa là “chung cho mọi người”, hoặc “thuộc nhà nước” và cách hiểu cũng là để phân biệt với “tư”(2). Như vậy, cách hiểu công vụ theo nghĩa “chung cho mọi người” là liên quan đến hoạt động của cả hệ thống chính trị được thực hiện bởi các chủ thể của hệ thống chính trị là các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội(3). Quan niệm công vụ như vậy được thể hiện trong Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019): “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức…”, và cán bộ, công chức (CBCC) được hiểu là những người hoạt động trong các cơ quan, tổ chức thuộc các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị là Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội(4). 

Có một cách hiểu khác hẹp hơn về công vụ chỉ liên quan đến nhà nước, đó là “công việc chủ yếu thuộc về nhà nước, do các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước tiến hành theo các quy định của pháp luật”(5). Loại công vụ này được thể hiện khái quát trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là cách hiểu có tính phổ biến trên thế giới với hàm ý chỉ có nhà nước mới là thiết chế mang quyền lực công có tính đại diện chung, chính thức cho mọi người trong xã hội. Trong bài viết này, công vụ nhà nước gắn liền với hoạt động của CBCC nhà nước. 

Công vụ nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội gắn liền với các công việc được thực hiện qua hoạt động của thiết chế nhà nước; được quy định do vị trí, vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị, đời sống chính trị. Theo nhận thức chung hiện nay, trong hệ thống chính trị nào thì nhà nước cũng là thiết chế có vị trí, vai trò trọng tâm hoặc là trung tâm(6). Về cơ bản, cùng với tính chính danh, đại diện trong cộng đồng, với các đặc trưng, sức mạnh, các điều kiện để nhà nước có khả năng tác động đến đời sống chung, sự phát triển của xã hội, các quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật điều chỉnh có ý nghĩa cụ thể với các cơ quan, tổ chức, tập thể, cá nhân… 

Đối với hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói chung và hệ thống chính trị Việt Nam nói riêng, vị trí, vai trò của Nhà nước được thể hiện trong các công trình nghiên cứu ở những mức độ khác nhau với sự thống nhất về cơ bản. Theo đó, trong hệ thống chính trị, Nhà nước có vị trí trung tâm, có công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân; Đảng Cộng sản là bộ phận cấu thành và là hạt nhân chính trị lãnh đạo của hệ thống chính trị, nhân tố quyết định sự phát triển của hệ thống chính trị; các tổ chức chính trị – xã hội hỗ trợ, hậu thuẫn cho các hoạt động của Đảng, của Nhà nước, tham gia vào việc thành lập cơ quan nhà nước, các hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước.

Công vụ nhà nước ở Việt Nam có một số đặc điểm sau: 1) Là một bộ phận cấu thành của nền công vụ theo cách hiểu rộng. Trong mối quan hệ giữa công vụ, hoạt động công vụ nhà nước và các công vụ, hoạt động công vụ khác không thể không chú ý đến tác động lãnh đạo nền công vụ của các cơ quan, tổ chức Đảng và tác động phối hợp, phản biện, giám sát của các tổ chức chính trị – xã hội; 2) Công vụ nhà nước được tạo lập, vận hành trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các yếu tố cơ bản như thượng tôn pháp luật, bảo đảm pháp chế còn là các vấn đề về sử dụng quyền lực nhà nước, dân chủ, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân…; 3) Công vụ nhà nước được tổ chức và hoạt động trong bối cảnh cải cách, xuất hiện những vấn đề mới nên cả công vụ nhà nước và kỷ luật nhà nước chưa  có sự ổn định, bền vững; 4) Đối với nền chính trị một Đảng lãnh đạo ở nước ta, công vụ nhà nước phụ thuộc vào vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định đối với tính chất, chất lượng và hiệu quả của nền công vụ.   

Kết quả, chất lượng của mọi nền công vụ nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: bản chất của nền công vụ, sự lựa chọn, độ nhạy cảm và thích ứng trước các nguyên tắc, vấn đề mới của công vụ và đời sống xã hội, việc tổ chức, sử dụng, kiểm soát nền công vụ, nhân lực… Bên cạnh đó còn đòi hỏi sự thống nhất về nhận thức và ứng dụng khoa học, hiệu quả trong nền công vụ các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.  

Trong khoa học pháp lý, kỷ luật nhà nước là khái niệm được hiểu theo hai cách: thứ nhất, kỷ luật là sự áp dụng trách nhiệm kỷ luật – một hình thức của trách nhiệm pháp lý – đối với CBCC, viên chức nhà nước vi phạm kỷ luật. Trong nền công vụ, đó là kỷ luật áp dụng đối với CBCC nhà nước. Đặc điểm của việc áp dụng kỷ luật nhà nước này là giữa người có thẩm quyền áp dụng biện pháp kỷ luật với người vi phạm kỷ luật có quan hệ trực thuộc về mặt tổ chức, trong một cơ quan, tổ chức nhà nước nhất định; thứ hai, kỷ luật nhà nước được quy thành việc thực hiện các quy định do nhà nước ban hành trong các văn bản quy phạm và không có tính quy phạm(7). Theo nghĩa này, không chỉ đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước mà kỷ luật của các tổ chức xã hội cũng được hiểu như vậy. Điều này thường thể hiện trong các văn bản chính trị, pháp lý của Đảng và Nhà nước khi bàn về các yêu cầu, hay đánh giá việc “chấp hành kỷ luật” trong các cơ quan, tổ chức Đảng và Nhà nước ta. Với các tổ chức khác của xã hội (ví dụ trong các tổ chức xã hội, trong trường học…) cũng sử dụng kỷ luật theo nghĩa là sự chấp hành, thực hiện quy định. Theo nghĩa đó, một số tác giả cho rằng kỷ luật là “trật tự nhất định hành vi con người theo những chuẩn mực do pháp luật, đạo đức quy định trong từng thời kỳ lịch sử…”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Theo nghĩa rộng, kỷ luật là phương thức để thực hiện một trật tự xã hội nhất định (kỷ cương)”(8). Nhưng cũng có cách hiểu kỷ luật như là các quy tắc, quy phạm, là: “Tổng thể những điều quy định…”. Nhưng trong khoa học pháp lý và trong đời sống xã hội, các quy tắc, quy định không được xem là nội hàm của kỷ luật nhà nước, mà chỉ là yếu tố hướng dẫn cách ứng xử của CBCC, viên chức. Kỷ luật nhà nước chỉ liên quan đến việc chấp hành hay thực hiện các quy định có tính chất pháp luật. 

Kỷ luật nhà nước có mối quan hệ với khái niệm pháp chế. Nếu pháp chế là khái niệm chỉ được hiểu là sự chấp hành, tuân thủ các quy phạm pháp luật thì kỷ luật nhà nước được hiểu rộng hơn. Ngoài các quy phạm pháp luật, kỷ luật nhà nước còn bao gồm việc chấp hành quy định trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước và các văn bản cụ thể. Mặt khác, kỷ luật nhà nước như là một cách thức thực hiện pháp chế. Kỷ luật nhà nước là khái niệm chung, bao gồm trong đó những hình thức kỷ luật được gọi theo tên các ngành luật hoặc theo các tiêu chí khác như: kỷ luật hành chính, kỷ luật tài chính; kỷ luật cán bộ nhà nước, kỷ luật công chức nhà nước…

Công vụ nhà nước phụ thuộc vào việc chấp hành kỷ luật nhà nước, cụ thể là ý thức và hành vi của CBCC chấp hành kỷ luật – các quy định, văn bản có tính chất pháp luật. Không thể có công vụ nhà nước tốt nếu không xác lập và duy trì được kỷ luật nhà nước nghiêm minh. Vai trò của kỷ luật nhà nước thể hiện trước hết là ở phương diện thống nhất hành động của CBCC, nhờ đó tạo ra sức mạnh của nền công vụ để thực hiện các mục tiêu chính trị của Nhà nước. Kỷ luật nhà nước là phương tiện xác lập nền công vụ có trật tự, trong đó mỗi CBCC, viên chức thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định, qua đó các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được thực hiện. Một khía cạnh quan trọng thể hiện sinh động vai trò của kỷ luật nhà nước trong việc thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước. Quyền lực trong nền công vụ nhà nước tốt phải gắn với việc duy trì kỷ luật nghiêm khắc, tự giác. 

Khi đề cập vai trò của kỷ luật nhà nước cần xem xét khả năng tác động đối với hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ. Trong mối quan hệ này, kỷ luật nhà nước sẽ tác động đến hiệu lực của nền công vụ. Điều đó thể hiện trong việc các văn bản pháp luật có được thi hành, công vụ có tác dụng trong thực tế hay không và chủ yếu nói đến tác động về “lượng” của kỷ luật nhà nước. Hiệu quả của nền công vụ nhà nước phản ánh về “chất” và được quan niệm theo cách hiểu chung về hiệu quả, theo đó hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực hiện mục tiêu đề ra với chi phí thấp nhất và xét trên các mặt khác nhau. Kỷ luật nhà nước hỗn loạn thì nền công vụ sẽ hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Nhưng hiệu quả của công vụ nhà nước ngoài ra còn cần đến nhiều yếu tố như hiểu biết và tính sáng tạo của CBCC trong xây dựng thể chế chính trị, cách tổ chức quyền lực nhà nước, giáo dục, khoa học và công nghệ, truyền thống, tập quán, ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế… 

Thực trạng việc thực hiện kỷ luật nhà nước trong nền công vụ thời gian qua 

Thực trạng của việc thực hiện kỷ luật nhà nước trong nền công vụ nhà nước có thể xem xét từ những khía cạnh khác nhau, nhưng có thể qua việc xem xét một số dấu hiệu cơ bản, có tính tổng quát: kết quả đạt được từ hoạt động công vụ CBCC, viên chức các cơ quan, tổ chức của Nhà nước; các đánh giá của Đảng và Nhà nước về chấp hành kỷ luật nhà nước; tình hình thực tế chấp hành kỷ luật của CBCC, viên chức. Từ năm 1986 đến nay, quá trình đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, đồng thời cả những hạn chế trên mọi mặt của đời sống xã hội. Văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội ĐBTQ từ đổi mới đến nay cho thấy Đảng ta đã nhiều lần đề cập một cách trực diện, trực tiếp về vấn đề kỷ luật nói chung, kỷ luật nhà nước nói riêng. Cụ thể, khi đánh giá về các thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng khẳng định là có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn và bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, đáng chú ý là hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản, vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội(9). Ví dụ đối với cơ quan hành pháp, trong Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ “Tổng kết tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020” cho thấy kỷ luật nhà nước trong cải cách hành chính cũng như các kết quả chấp hành kỷ luật nhà nước qua cải cách hành chính trên các mặt là rất tích cực. Theo các báo cáo hàng năm của ngành Tòa án, đặc biệt là “Báo cáo công tác Tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018, nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới” ngày 14/01/2019 cho thấy theo tinh thần cải cách tư pháp thì ngoài các vấn đề nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn và một số vấn đề khác, kỷ luật nhà nước đối với công chức cũng được ngành đặc biệt quan tâm(10). Điều đó được thể hiện qua việc “tăng cường kỷ cương kỷ luật công vụ”, ban hành văn bản quy định trách nhiệm của người giữ các chức danh tư pháp, việc đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết khiếu nại, tố cáo… 

Nhìn chung,  việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện pháp luật và thực thi công vụ đã giúp đội ngũ CBCC, viên chức thực hiện đúng và tốt hơn chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tạo được trật tự ổn định trong nền công vụ, bảo đảm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: kỷ cương, phép nước có nơi còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời…(11). Theo số liệu thống kê, trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên). Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên. Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 169 đảng viên, trong đó có 53 đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý(12). 

Kết luận Phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: trong năm 2021, không vì chống dịch, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vẫn được Ban Chỉ đạo tiến hành quyết liệt, bài bản, ngày càng có hiệu quả hơn. Qua kiểm tra đã xử lý, kiến nghị xử lý kỷ luật nhiều cán bộ cấp cao, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang, cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 26 cán bộ diện Trung ương quản lý liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo. Cũng trong năm 2021, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 3.725 vụ với 7.066 bị can (tăng 1.186 vụ với 2.652 bị can năm 2020) về tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế…(13). Theo Báo cáo về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2022 do Bộ Công an gửi Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, tính đến hết tháng 10/2022, số vụ phạm tội về tham nhũng và chức vụ phát hiện năm 2022 tăng 40,97% so với năm 2021.

Giải pháp tiếp tục tăng cường kỷ luật nhà nước trong thực thi công vụ

Một là, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về kỷ luật nhà nước. 

Thực tế cho thấy, hiện nay đang có tư duy phó mặc cho CBCC tự điều chỉnh, hoặc đặt trọng tâm vào việc nâng cao ý thức kỷ luật nhà nước cho CBCC thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Sự tác động đến nhận thức kỷ luật nhà nước đối với CBCC như vậy là cần thiết, nhưng không thể giúp nâng cao được kỷ luật nhà nước một cách hiệu quả. Bởi vì, một người có thể nắm rất chắc các quy định pháp luật cũng như đòi hỏi về chấp hành kỷ luật nhà nước, nhưng lại có thể là người vô kỷ luật, lẩn tránh việc chấp hành kỷ luật hoặc chấp hành kỷ luật dưới áp lực của áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Do đó, các hoạt động nâng cao kỷ luật nhà nước của CBCC cần hướng đến mục tiêu là xây dựng kỷ luật nhà nước tự giác – trở thành tiềm thức trong mỗi CBCC. 

Những vi phạm kỷ luật nhà nước diễn ra trong thời gian qua cho thấy cần phải nhận thức lại một cách nghiêm túc để xem xét, đánh giá về hiệu quả của các biện pháp nâng cao kỷ luật nhà nước đã và đang thực hiện. Trọng tâm là cần khơi dậy cho đội ngũ CBCC có niềm vinh dự và tự hào cũng như trách nhiệm, kỷ luật thực chất, vững chắc theo tinh thần Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ. Vậy người công chức phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc. Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình. Địa vị ấy được đề cao trong Quy chế này”(14). Bên cạnh đó, cần có những biện pháp mang tính giáo dục, nâng cao nhận thức về chấp hành kỷ luật nhà nước của CBCC trên tình đồng chí, sự chân thành trong phê bình và tự phê bình, nêu gương… phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. 

Hai là, duy trì kỷ luật nhà nước bằng các biện pháp trách nhiệm pháp lý, đặc biệt là trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự. 

Không thể có kỷ luật nhà nước tốt nếu không áp dụng trách nhiệm pháp lý trong các trường hợp vi phạm kỷ luật nhà nước. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ trách nhiệm pháp lý chỉ là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp bảo đảm kỷ luật nhà nước khác không được thực hiện, hoặc thực hiện không hiệu quả. Không tuyệt đối hóa vai trò hay lạm dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý, đe dọa áp dụng hay áp dụng thực tế biện pháp trách nhiệm pháp lý đều không tốt. Sử dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý để duy trì kỷ luật nhà nước cần bảo đảm hợp pháp, hợp lý tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm; xử lý có sự bình đẳng trong đội ngũ CBCC và giữa CBCC với công dân, không để tạo ra dư luận không tốt. 

Ba là, đổi mới công tác bầu, bổ nhiệm, tuyển dụng và đánh giá đối với cán bộ, công chức nhà nước. 

Đây là những công việc có tầm quan trọng đặc biệt trong việc lựa chọn nhân sự có kỷ luật vào nền công vụ và duy trì kỷ luật nhà nước trong nền công vụ. Nếu phê chuẩn, bổ nhiệm, tuyển dụng được thực hiện một cách nghiêm túc thì đây là biện pháp rất tích cực, hiệu quả để ngăn ngừa những “mầm mống” có thể phát sinh trong nền công vụ. Ví dụ, từ việc cán bộ giữ chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước vướng vào vòng lao lý, đã có ý kiến đề nghị xem xét lại công tác quy hoạch cán bộ, đánh giá CBCC sau thời gian bổ nhiệm, vấn đề thi tuyển chức danh lãnh đạo. Đối với vấn đề quy hoạch cán bộ, cần triển khai trên môi trường cạnh tranh, bình đẳng để bất cứ ai (trong và ngoài quy hoạch) đều có cơ hội và luôn có lực lượng CBCC có ý thức phấn đấu vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý. 

Trong công tác đánh giá CBCC nói chung và công chức lãnh đạo, quản lý nói riêng, cần được đánh giá sau một thời gian bổ nhiệm và khi công chức không thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác đánh giá CBCC là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là cơ sở có tính quyết định đối với duy trì sức mạnh kỷ luật của đội ngũ CBCC. Vì vậy, cần thực hiện một cách nghiêm túc các quy định pháp luật về đánh giá. Đánh giá phải thực chất, khách quan, khoa học. Trong đánh giá CBCC, các thủ tục đánh giá chỉ là bảo đảm cho việc đánh giá đúng và là yếu tố cần nhưng chưa đủ. Không thể lấy việc “đã thực hiện đúng quy trình” để biện minh cho các sai sót khi bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm cũng như sai sót trong thực thi công vụ của CBCC. Người đánh giá CBCC phải có năng lực, có tâm trong sáng và ý thức trách nhiệm đối với nền công vụ.

Bốn là, kiểm tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật trong thực thi quyền lực nhà nước. 

Trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước, việc duy trì, bảo đảm kỷ luật công vụ trước hết thuộc nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, sự nêu gương của người đứng đầu. Cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện kỷ luật ở các cơ quan, tổ chức theo nguyên tắc ở đâu có quyền lực nhà nước thì ở đó có kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực đó. Vì vậy, kiểm tra, giám sát cần được tiến hành không phải chỉ khi có hiện tượng vi phạm kỷ luật, có khiếu nại, tố cáo… mà có thể triển khai thường xuyên, đột xuất. Các cơ chế kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước cấp trên, kiểm tra của tòa án… cần đổi mới, thực chất để nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát độc lập và phối hợp thành hệ thống đối với nền công vụ nhà nước.  

Năm là, tăng cường tính dân chủ trong việc bảo đảm chấp hành kỷ luật trong công vụ nhà nước. 

Hiện nay, khi đánh giá về dân chủ, ngoài các chỉ số liên quan đến bầu cử, tính dân chủ trong hoạt động của chính quyền và một số yếu tố khác, sự tham gia của người dân, việc thực hiện các quyền dân chủ của công dân là những chỉ số cơ bản đánh giá về nền dân chủ, gắn kết với vấn đề nhà nước. Mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân được xác định rõ tại Khoản 1 Điều 2, Hiến pháp năm 2013:  “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Trên thực tế, dân chủ đã tác động mạnh đến Nhà nước, nền công vụ cũng như kỷ luật nhà nước. Tuy nhiên, chúng ta chưa sử dụng được hết sức mạnh của Nhân dân trong việc bảo đảm kỷ luật nhà nước trong nền công vụ. Ví dụ, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay còn hạn chế, hiện tượng tham nhũng tiếp diễn phức tạp, thậm chí ngang nhiên là do tinh thần, sự tham gia của người dân vào quá trình này còn hạn chế. Thể hiện ở việc họ không dám có ý kiến, hoặc dè dặt, lo bị trả thù trong việc tố cáo hành vi tham nhũng; một bộ phận CBCC thờ ơ, lợi ích nhóm hay vì lý do nào khác đã không xem xét những phát hiện của người dân về hiện tượng tham nhũng, tiêu cực… 

Dân chủ là lực lượng, sức mạnh có tính chất quyết định bản chất và vận hành của bộ máy nhà nước, kỷ luật nhà nước. Trong xã hội dân chủ ngày càng mở rộng và phát triển theo chiều sâu thì vai trò, đòi hỏi của người dân đối với việc chấp hành kỷ luật nhà nước của CBCC ngày càng lớn. Vấn đề là cần có cơ chế và môi trường tốt để sử dụng hiệu quả sức mạnh và trí tuệ của Nhân dân trong việc chủ động, tích cực tham gia vào xây dựng nền công vụ. Đó cũng là yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./. 

———————

Ghi chú:

(1),(2) Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.211, tr.206

(3),(5) Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập1, Nxb Từ điển bách khoa, 2007, tr.746, tr.746.

(4) Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. 

(6) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, H.2010, tr.146-147.

(7) Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên Xô (Bộ môn Xây dựng Nhà nước Xô-viết và pháp quyền), Những nguyên lý xây dựng Nhà nước Xô – viết và pháp quyền, Nxb Sách giáo khoa học Mác-Lênin, H.1986, tr.113-114.

(8) Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, H.2007, tr.548-549.

(9),(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.71-73, tr.89.

(11) Tòa án nhân dân tối cao, “Báo cáo tóm tắt công tác Tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018, nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới”, ngày 14/01/2019, tr.3. 

(12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.200.

(13) Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (baochinhphu.vn).

(14) Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 về ban hành Quy chế công chức Việt Nam.  

 

PGS.TS Vũ Thư, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

tcnn.vn