Một số vấn đề lý luận về nghiên cứu cấu trúc truyện cổ tích thần kì – TƯ LIỆU NGỮ VĂN

Phạm Tuấn Anh
Viện Văn hóa

             Truyện cổ tích thần kỳ là đối tượng được nhiều nhà folklore học quan tâm về phương diện cấu trúc. Bằng trực giác, ngay cả những người đọc nhiều truyện cổ tích thần kỳ cũng nhận thấy sự đặc biệt của thể loại này, đó là sự tương tự giữa chúng, nói cách khác, trong những truyện khác nhau vẫn có một cái gì đó giống nhau, nghĩa là sự lặp lại của những yếu tố bất biến (những yếu tố cố định trong truyện cổ tích thần kỳ). Các nhà folklore học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có nói đến hiện tượng đại đồng tiểu dị, cũng là chỉ ra đặc điểm này của cổ tích thần kỳ. Tuy nhiên, còn ít người quan tâm nghiên cứu sâu về cấu trúc của nó. Có lẽ các nhà nghiên cứu Việt Nam không quan niệm đại đồng tiểu dị chỉ là vấn đề cấu trúc.

Vấn đề cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ ở Việt Nam chỉ thực sự được đặt ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Nghiên cứu cấu trúc loại hình dường như là một luồng gió mới thổi vào folklore học Việt Nam. Các nhà khoa học quan tâm đến cấu trúc với cái nhìn thực sự kính trọng những thành tựu nghiên cứu ở nước ngoài, không coi đó là một thứ hình thức chủ nghĩa, không bài xích nó như một thứ tư tưởng lệch lạc về khoa học. Tuy nhiên, những câu hỏi đại loại như nghiên cứu cấu trúc để làm gì vẫn được đặt ra. Như vậy, sự hoài nghi về hướng nghiên cứu này vẫn còn nhưng đã phai nhạt dần và cho đến nay, gần như đã bị triệt tiêu. Tuy vậy những thành tựu của nghiên cứu cấu trúc vẫn chưa được là bao. Có lẽ vì  hướng nghiên  cứu này rất khó, đòi hỏi một sự kỳ công và một khả năng phát hiện lớn đối với nhà nghiên cứu.

Nhìn lại lịch sử khoa học về nghiên cứu cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ, chúng tôi thấy nổi bật lên các tư tưởng sau:

Trước hết, việc phát hiện ra cấu trúc đặc biệt của truyện cổ tích thần kỳ, công đầu thuộc về các nhà folklore học châu Âu. Người đầu tiên đưa ra khái niệm type và motif là nhà folklore học Nga nổi tiếng ở thế kỷ XIX A.N. Vexelopxki(1). Theo ông, motif là yếu tố cố định (hay yếu tố bất biến) trong truyện cổ tích thần kỳ. Nó không xuất hiện trong một truyện cổ tích mà có khả năng di chuyển hoặc được bảo lưu trong một số truyện cổ tích khác nhau, thậm chí, trong rất nhiều truyện cổ tích. Chẳng hạn, motif “đôi giày” trong truyện Lọ Lem ở châu Âu và trong truyện Tấm Cám ở Việt Nam. Sự lặp lại của một motif trong kho tàng truyện kể các dân tộc khác nhau có thể là kết quả của giao lưu văn hóa song cũng có thể bằng con đường tự sinh thành (nội sinh) do những điều kiện xã hội lịch sử tương đồng. A.N. Vexelopxki cho rằng những truyện cổ tích thần kỳ có cùng một số motif  giống nhau sẽ thuộc về một type. Truyện cổ tích thần kỳ có nhiều type. Người ta có thể đặt tên cho mỗi type bằng cách gọi ra motif đặc trưng. Theo ông, motif là yếu tố nhỏ nhất cấu tạo nên type, nghĩa là motif ở trong type và type bao trùm lên motif. Tuy nhiên, Vexelopxki không quan niệm cứng nhắc về nguyên tắc cấu trúc nêu trên. Ông phát hiện ra rằng, giữa type và motif có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Trong trường hợp cốt truyện chỉ bao gồm một motif thì motif này đã chuyển hóa thành type; ngược lại, một cốt truyện đang thuộc về một type, có thể di chuyển vào một cốt truyện phức tạp hơn và chỉ là thành phần của cốt truyện phức tạp này. Nó đã trở thành motif  chứ không phải là type nữa.

Lý thuyết của Vexelopxki đã trở thành phổ biến ở châu Âu từ cuối thế kỷ XIX. Nhiều công trình nghiên cứu về type và motif đã thành công như công trình của A. Aarne và C. Thompson. Ở Việt Nam có công trình của Nguyễn Tấn Đắc(2) và một số công trình khác đã áp dụng lý thuyết này để nghiên cứu truyện cổ tích như Nguyễn Bích Hà(3), Nguyễn Thị Huế(4), Tăng Kim Ngân(5), Nguyễn Thị Hiền(6), v.v…

Lý thuyết của Vexelopxki đã nhận được sự phê phán từ V.Ia. Propp. Trước khi đưa ra lý thuyết mới của mình, V.Ia. Popp đã nhận xét rằng, motif không phải là yếu tố nhỏ nhất. Nó vẫn có thể được phân chia thành những yếu tố nhỏ hơn “motif không phải là đơn nhất và không thể phân chia được”(7). Vì thế, chúng tôi cho rằng, khái niệm motif có phần mơ hồ, khó xác định. Một motif bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu? Điều đó phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nhà nghiên cứu.

Chúng tôi, khi tìm hiểu motif “đôi giày” trong truyện Tấm Cám, cũng băn khoăn khi xác định giới hạn của nó. Motif “đôi giày” có thể là hình ảnh đôi giày, có thể là một cấu trúc bao gồm các hành động đánh rơi giày, thử giày, nhận ra người đẹp. Vậy, quá trình Tấm nhận được đôi giày từ trong cái lọ đựng xương cá bống mà trước đây cô đã chôn dưới chân giường có nằm trong motif này không? Một câu hỏi tiếp theo tất yếu được đặt ra. Truyện Tấm Cám được cấu tạo bởi bao nhiêu motif và là những motif nào? Câu trả lời sẽ không dễ dàng và càng không dễ dàng thuyết phục người nghe vì motif phải là yếu tố được lặp đi lặp lại trong những truyện cổ tích khác nhau. Trong truyện Tấm Cám, chỉ có vài yếu tố đạt tiêu chuẩn này và vì vậy, chỉ có vài motif mà thôi. Đó là các motif “đôi giày”, “dội nước sôi giết địch thủ” (riêng motif này có ở truyện cổ tích một vài nước Đông Nam Á). Sự biến hóa trong Tấm Cám không thể gọi là motif được vì quá chung chung, đa số truyện cổ tích thần kỳ đều có biến hóa. Ngay cả chi tiết trầu têm cánh phượng (đầu mối để tìm ra người đẹp) cũng khó có thể cho là motif vì không lặp lại ở các truyện khác. Riêng “người đội lốt” được coi là một motif phổ biến thì khái niệm motif cũng đã được hiểu rộng ra rồi. Cô Tấm từ trong quả thị bước ra cũng giống như người đẹp từ trong tranh bước ra, từ trong vỏ con cóc, con ếch, sọ dừa… bước ra. Gọi là “người đội lốt” là chỉ đặc điểm của một kiểu nhân vật đúng hơn là chỉ một motif. Như vậy, khái niệm motif, trong những trường hợp cụ thể như thế này, vẫn còn gây tranh luận.

Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, ngay cả sau Propp, khái niệm motif vẫn được các nhà folklore học sử dụng khá phổ biến để nghiên cứu truyện cổ tích và một số thể loại truyện kể dân gian khác. Họ đã đạt được một số thành tựu quan trọng đóng góp cho khoa học chuyên ngành. Như vậy, tư tưởng về motif của Vexelopxki vẫn còn sức sống lâu bền và có giá trị như một công cụ nghiên cứu mặc dù nó có những hạn chế nhất định.

V.Ia. Propp, đến lượt mình, đưa ra khái niệm “chức năng của nhân vật hành động”(8). Theo ông, các nhân vật khác nhau có thể hành động khác nhau nhưng nếu những hành động này đều cùng thực hiện một chức năng giống nhau thì được xếp vào một nhóm. Truyện cổ tích thần kỳ được cấu tạo bởi 31 chức năng (tức 31 nhóm hành động cùng chức năng), một con số hoàn toàn hữu hạn nhưng lại tạo ra vô hạn những truyện khác nhau. Đó là một phát hiện làm cho giới nghiên cứu phải kinh ngạc.

Tuy nhiên, những hành động không xếp được vào chức năng nào lại còn rất nhiều, tạm gọi là những yếu tố phi chức năng. Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng  không kém gì các hành động có chức năng trong cấu trúc của một truyện cổ tích thần kỳ. Như vậy, tính phong phú của truyện cổ tích thần kỳ được tạo ra  không phải chỉ do 31 chức năng mà còn do các yếu tố phi chức năng nữa. Nói cách khác, 31 chức năng mà V.Ia. Propp phát hiện ra là cực kỳ quan trọng nhưng chưa thể bao hàm toàn bộ cấu trúc của một truyện cổ tích thần kỳ được. Những yếu tố phi chức năng không thể coi là yếu tố phụ. Vấn đề chỉ là ở chỗ, chúng ta chưa nghiên cứu được nó mà thôi. Kết quả nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ của người Việt cho chúng tôi thấy, kết cấu theo chức năng là một khuôn hình khá mờ nhạt. Trong truyện cổ tích thần kỳ Việt hoàn toàn có sự xuất hiện của 31 chức năng nhưng thiếu một sự sắp xếp liên tục và chặt chẽ. Tình trạng tản mát của các chức năng là phổ biến. Giữa chúng là các yếu tố không phải chức năng. Điều đó khiến chúng tôi nghĩ rằng, truyện cổ tích thần kỳ Việt không điển hình, nó chịu ảnh hưởng hoặc thâm nhập của các thể loại truyện dân gian khác. Nhưng sau khi đối chiếu với truyện cổ tích thần kỳ của một vài dân tộc khác ở châu Á như Trung Quốc, Malaysia, Inđônêxia… thì thấy tình hình cũng như vậy. Rõ ràng, vấn đề cấu trúc theo chức năng trong truyện cổ tích thần kỳ vẫn cần phải được nghiên cứu tiếp tục.

Cấu trúc 31 chức năng là cấu trúc hình tuyến của truyện cổ tích thần kỳ. Khác với V.Ia. Propp, B.P. Kerbelite đưa ra khái niệm cốt truyện cơ sở(9), những cốt truyện này mang tính độc lập, nằm trong một truyện phức tạp hoặc kết nối với nhau tạo nên một truyện phức tạp. Truyện cổ tích thần kỳ đơn giản nhất thường chỉ là một cốt truyện cơ sở. Chiều hướng phát triển của truyện cổ tích thần kỳ là sự phức tạp hóa dần dần bởi nhiều cốt truyện cơ sở. Điều đó cũng đồng nhất với lịch sử truyện cổ tích thần kỳ. Những truyện ra đời sớm thường bao gồm ít cốt truyện cơ sở. Những truyện ra đời muộn thường nhiều cốt truyện cơ sở hơn và vì thế, cấu trúc phức tạp hơn.

Lý thuyết của B.P. Kerbelite đặt ra một hướng mới cho việc nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ. Cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ (theo B.P. Kerbelite) không phải chỉ hình tuyến như trong lý thuyết của V.Ia. Propp. Các cốt truyện cơ sở liên kết với nhau có thể theo hình tuyến nhưng cũng có thể cài lồng vào nhau hoặc bao trùm lên nhau. Điều này cũng làm nên tính đa dạng, phong phú của truyện cổ tích thần kỳ.

Tuy nhiên, qua khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy rằng, không phải bất cứ truyện cổ tích thần kỳ nào cũng có thể phân chia thành các cốt truyện cơ sở, nghĩa là truyện đó chỉ bao gồm các cốt truyện cơ sở . Truyện cổ tích thần kỳ còn bao gồm những chi tiết (hoặc hành động) không thể xếp vào bất kỳ cốt truyện cơ sở nào. Những chi tiết này đã bị bỏ qua trong quá trình nghiên cứu của B.P. Kerbelite.

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu sơ lược ba hệ thống lý thuyết của các nhà nghiên cứu folklore lớn trên thế giới. Việc nêu ra những hạn chế của mỗi lý thuyết chỉ là một cách tiếp cận chân lý khoa học. Chân lý nào cũng mang tính tương đối. Trên cơ sở những gợi mở trong công trình của B.P. Kerbelite, chúng tôi đề xuất một khái niệm công cụ cho mình.

Theo chúng tôi, bất kỳ một truyện cổ tích thần kỳ nào (dù ở phương Đông hay phương Tây) cũng bao gồm trong đó các hành động của nhân vật. Nói cách khác, hành động của nhân vật chính là thành tố cấu trúc phổ biến của loại hình tự sự (kể cả văn xuôi và văn vần). Trong các thể loại tự sự dân gian, hành động của nhân vật không chỉ là thành tố cấu trúc phổ biến mà còn gần như là duy nhất.

Tuy nhiên, tổng số các hành động cụ thể, riêng rẽ của các nhân vật chưa thể tạo nên type truyện, nghĩa là tạo nên một kiểu cấu trúc của truyện cổ tích thần kỳ. Thông thường, một số hành động liên kết lại với nhau, tạo thành nhóm, chúng tôi gọi là một block, thể hiện một sự kiện (tức một biến cố) có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình câu chuyện kể. Những block như thế được gọi là block sự kiện. Mỗi truyện cổ tích thần kỳ bao gồm một số block sự kiện nhất định. Số lượng block sự kiện có thể khác nhau, tuỳ theo độ dài của truyện. Các block sự kiện có quan hệ với nhau theo một số hình thức nhất định. Các block sự kiện và mối quan hệ giữa chúng tạo nên type của truyện cổ tích thần kỳ.

Hệ thống block sự kiện trong một truyện cổ tích thần kỳ bao giờ cũng nhằm bộc lộ chủ đề của truyện cổ tích đó. Như vậy giữa nội dung và hình thức ở đây luôn luôn tương hợp với nhau. Không có hình thức kết cấu phi chủ đề và không có chủ đề ngoài kết cấu.

Sự phân loại type truyện theo chủ đề hoặc theo kiểu nhân vật đều phù hợp với cấu trúc sự kiện. Như vậy, cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ theo các block sự kiện thường mang tính đặc thù, quy định type truyện.

Sau đây là một vài phân tích cụ thể để chứng minh sự tồn tại của block sự kiện là hiện tượng có thật trong truyện cổ tích thần kỳ.

Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam có nhiều típ truyện. Trong sự thể nghiệm của mình, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu típ truyện về chàng dũng sĩ và phân tích truyện Thạch Sanh là truyện tiêu biểu(10).

Nếu phân tích một cách đầy đủ thì truyện Thạch Sanh bao gồm rất nhiều hành động song chỉ có một số ít hành động đóng vai trò quan trọng vì chúng tham gia vào tiến trình câu chuyện. Chúng tập hợp lại thành các block sự kiện khác nhau.

Theo chúng tôi, trong truyện Thạch Sanh có các block sự kiện sau:

a) Block sự kiện thứ nhất bao gồm 4 hành động quan trọng:

– Thạch Sanh và Lý Thông gặp nhau, kết nghĩa anh em.

– Thạch Sanh đi canh miếu chằn tinh thay cho Lý Thông.

– Thạch Sanh chém chằn tinh, nhận được cung tên vàng.

– Lý Thông cướp công Thạch Sanh.

b) Block sự kiện thứ hai bao gồm 4 hành động quan trọng:

– Thạch Sanh bắn tên trúng cánh chim đại bàng khi nó đang quắp công chúa bay về hang.

– Lý Thông tìm lại Thạch Sanh, yêu cầu cứu công chúa.

–  Thạch Sanh đưa được công chúa lên khỏi hang.

– Lý Thông lấp hang để giết chết Thạch Sanh hòng cướp công.

c) Block sự kiện thứ ba bao gồm 2 hành động quan trọng:

– Thạch Sanh bị nhốt trong hang đánh nhau với đại bàng, giết đại bàng, cứu được con trai vua Thuỷ.

– Thạch Sanh thăm thuỷ phủ, được vua Thuỷ tặng cây đàn thần và trở về.

d) Block sự kiện thứ tư bao gồm 4 hành động quan trọng:

– Chằn tinh và đại bàng báo thù, làm cho Thạch Sanh bị nhà vua bắt giam.

– Công chúa  bị câm, Thạch Sanh gảy đàn, công chúa nói được.

– Thạch Sanh kể lại sự thật về cuộc đời mình.

– Lý Thông bị trừng phạt.

e) Block sự kiện thứ năm bao gồm 4 hành động quan trọng:

–  Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh.

– Thạch Sanh gảy đàn thần, lui quân 18 nước chư hầu.

– Thạch Sanh đưa ra niêu cơm thần ăn hết lại đầy cho quân 18 nước.

– Vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.

Như vậy, cấu trúc truyện Thạch Sanh bao gồm 5 block sự kiện, trong đó có tổng số 18 hành động được cho là quan trọng (vì tham gia vào việc thúc đẩy tiến trình câu chuyện). Các block sự kiện này không phải là motif, cũng không phải là chức năng. Nó không phải là kết cấu chung của nhiều truyện cổ tích thần kỳ. Nó là của riêng truyện Thạch Sanh.

Nhìn vào sơ đồ kết cấu này, chúng tôi có một số nhận xét như sau:

a) Việc chọn ra 18 hành động được coi là quan trọng không mấy khó khăn vì so với những hành động khác, chúng nổi bật hơn ở chỗ tạo nên ý nghĩa của block sự kiện.

b) Thực ra có một số hành động kép, khó có thể tách ra, như:

– Thạch Sanh giết đại bàng, cứu con vua Thuỷ.

– Thạch Sanh thăm thuỷ phủ, được vua Thuỷ tặng cây đàn thần và trở về.

– Thạch Sanh gảy đàn, công chúa nói được.

– Thạch Sanh gảy đàn, lui quân mười tám nước.

Hành động kép là tổ hợp bao gồm hai hay một số ít hành động diễn ra đồng thời và về ý nghĩa, chúng liên quan mật thiết với nhau. Việc tách các hành động này ra, hoàn toàn có thể làm được nhưng sẽ không mang lại ý nghĩa gì mới cho việc nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi xem đó như là một hành động mang tính tổng quát.

c) Trong mỗi block sự kiện, có một hành động mà ý nghĩa nổi bật hơn cả (biểu thị bằng dòng chữ in nghiêng), trở thành hành động trung tâm của block, xác định chủ đề của block. Căn cứ vào hành động trung tâm này, ta có thể tìm thấy ý nghĩa chung của các block trong truyện Thạch Sanh là thể hiện các chiến công của nhân vật. Đó là các chiến công: Chém chằn tinh; cứu công chúa; giết đại bàng; làm cho công chúa hết câm (nói được); lui quân 18 nước.

Từ kết quả phân tích trên đây, chúng tôi đi tới kết luận về đặc trưng của cấu trúc truyện Thạch Sanh là:

– Bao gồm các block sự kiện có chủ đề: Chiến công của nhân vật chính (nhân vật dũng sĩ).

– Các block sự kiện có mối quan hệ đồng đẳng, nối tiếp nhau theo kết cấu hình tuyến.

– Hành động lập công của nhân vật chính thường đi đôi với hành động cướp công của nhân vật phụ.

Nếu phân tích nhiều truyện thuộc nhóm truyện về chàng dũng sĩ, ta có thể phát hiện sự giống nhau giữa chúng về cấu trúc. Như vậy ta có thể tìm được những đặc điểm cấu trúc chung của type truyện bằng sự xác định và phân tích block sự kiện.

Như vậy, block sự kiện là đơn vị cấu trúc của truyện cổ tích thần kỳ. Nó cấu tạo nên tất cả các truyện cổ tích khác nhau. Mỗi block sự kiện bao giờ cũng thể hiện một chủ đề nhất định. Ở đây có sự gắn bó mật thiết giữa hình thức cấu trúc và nội dung. Trong phạm vi một type truyện, các block sự kiện thường có chủ đề giống nhau hoặc rất gần nhau. Chính điều này đã tạo nên đặc điểm riêng của type truyện. Việc phân loại type truyện sẽ dựa trên sự tổ hợp của các block sự kiện xét theo hai phương diện: chủ đề của chúng và mối quan hệ giữa chúng1

______________

(1) Vexelopxki A.N.: Những bài báo về truyện cổ tích. Trong sách Tuyển tập các công trình nghiên cứu, tập 16, Lêningrat xuất bản, 1938.

(2) Nguyễn Tấn Đắc: Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2001.

(3) Nguyễn Bích Hà: Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Nxb. Giáo dục, H, 1998.

(4) Nguyễn Thị Huế: Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1999.

(5) Tăng Kim Ngân: Cổ tích thần kỳ người Việt – đặc điểm cấu tạo cốt truyện. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1994.

(6) Nguyễn Thị Hiền: Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra cứu típ và mô típ truyện cổ dân gian của Antti và Stith Thompson, Văn hoá dân gian số 2/1996.

 (7) Tuyển tập V.Ia. Propp, tập I. Nxb. Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, H, 2003, tr.33.

(8) Tuyển tập V.Ia. Propp, tập I. Sách đã dẫn, tr.49.

(9) Kerbelite B.P: Tip cốt truyện của truyện cổ tích thần kỳ. Trong sách: Folklore Hình tượng và ngôn từ thi ca trong ngữ cảnh. Nxb. Khoa học, Matxcơva, 1984. Từ trang 203 đến trang 250.

(10) Thạch Sanh. Trong sách: Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 6: Truyện cổ tích thần kỳ, Nguyễn Thị Huế chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2004. Từ trang 751 đến trang 755.

Nhắn tin cho tác giả