Một số phương pháp nhân giống hoa ly phổ biến hiện nay
Mục Lục
1. Nhân giống hoa ly bằng phương pháp nuôi cấy mô
Lily nhân bằng củ có hệ số nhân giống thấp, mặt khác nếu nhân liên tục nhiều năm, virut tích luỹ lại và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm cho cây sinh trưởng yếu. Để khắc phục nhược điểm này, người ta đã sử dụng phương pháp nuôi cấy mô tế bào. Cho đến nay kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào đã trở nên quen thuộc và được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất lily.
1.1. Ưu điểm nhân giống hoa ly bằng phương pháp nuôi cấy mô
– Hệ số nhân giống nhanh (hệ số nhân giống bằng sinh sản củ thường không quá 16 lần, nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô, sau 1 năm từ một bộ phận cây được trên hai vạn củ).
– Có thể tạo ra giống mới: nuôi cấy mô là phương pháp gây nhân giống ở bộ phận cơ quan của cây, mô và tế bào là những phần có độ biến dị lớn, dễ khống chế điều kiện nuôi, lợi dụng đặc điểm này có thể tạo ra giống mới.
– Có thể tạo ra cây con sạch bệnh virut: đây là một nhân tố quan trọng khắc phục sự thoái hoá của lily.
– Không bị hạn chế bởi thời tiết, hoàn toàn có thể khống chế các yếu tố trong phòng nuôi cấy, do đó có thể chủ động về giống.
– Tiết kiệm đất, lao động và thời gian.
1.2 Kỹ thuật nhân giống hoa ly bằng phương pháp nuôi cấy mô
– Nuôi cấy mô lily hiện nay ở các nước tiên tiến đã khá hoàn thiện có thể đáp ứng được số lượng lớn cây giống sạch bệnh cho sản xuất. Ở Việt Nam phương pháp này còn mới, hiện chưa được áp dụng.
– Lấy mẫu: các phần lấy để nuôi cấy mô rất phong phú từ củ, lá, nụ, cuống, hoa…nhưng lấy phần non của đỉnh sinh trưởng tốt hơn cả. Vì chúng dễ lấy, dễ khử trùng, thời gian mọc thành cây ngắn.
– Khử trùng mẫu: mẫu được lấy ra ngâm vào nước sạch 15 phút rồi đưa lên tiêu độc ở tủ nuôi cấy. Ngâm mẫu vào cồn 700 trong 30 giây rồi khử trùng bằng hoá chất H2C12 trong 20 phút.
– Nuôi cấy trong phòng: điều tiết môi trường nuôi cấy nhiệt độ thích hợp là 20 – 40oC, ánh sáng từ 1000 – 2000lux, thời gian chiếu sáng mỗi ngày từ 10 – 12h (các bước nuôi cấy mô giống như với loài thân thảo khác).
– Đưa cây ra vườn ươm: sau khi cây non ra rễ dài 0,7 – 1cm, có thể lấy ra trồng. Khi mới lấy từ bình nuôi cấy ra không nhất thiết phải tách thành cây một, đợi sau khi cây sống chắc chắn rồi mới tách riêng ra. Thời gian đầu chú ý bảo quản nhiệt độ luôn mát mẻ (15 – 25oC ).
Nhân giống hoa ly bằng phương pháp nuôi cấy mô (Giai đoạn: đưa cây ra vườn ươm)
– Đối với giống quý hiếm, để đảm bảo tỉ lệ sống cao, thường sau khi lấy từ bình ra, người ta đặt trên giấy thấm nước rồi chuyển vào nơi tiêu độc để trồng trong vườn ươm.
– Thông thường tỉ lệ sống của lily nuôi cấy mô hiện nay có thể đạt từ 80 – 100%.
2. Nhân giống hoa ly bằng giâm vảy
– Đây là phương pháp nhân giống cổ truyền đối với lily. Trên thân vảy (củ) của lily có rất nhiều vảy, mỗi vảy có thể sinh ra vài vảy nhỏ ở gốc, mỗi thân vảy nhỏ sẽ hình thành một cơ thể mới. Vì vậy, cách nhân giống này có hệ số nhân tương đối cao.
2.1.Thời gian giâm:
Thời gian giâm tốt nhất là vào mùa xuân (tháng 3 – 4) vào lúc thu hoạch củ.
2.2. Kỹ thuật giâm:
– Tiêu độc vẩy: chọn củ to mập, bóc lớp vỏ khô hoặc thối bên ngoài, rồi bóc lấy vảy lành, khoẻ ngâm trong dung dịch Foocmalin 40% pha theo tỉ lệ 1/80 lần trong 20 phút, sau đó lấy ra dùng nước sạch rửa ba lần rồi hong khô.
– Chuẩn bị vườn ươm: chọn nơi nhiệt độ ổn định, thường duy trì ở mức 20 đến 25oC, không có ánh sáng trực xa, thiết kế vườn giâm có sàn rộng 40 – 60m, chiều dài tuỳ ý, chất nền để giâm là cát sạch, hoặc than bùn, độ dày lớp chất nền 8 – 10 cm. Nếu số lượng ít có thể dùng khay gỗ hoặc chậu để giâm.
– Thao tác giâm: cắm nghiêng vảy vào chất nền, khoảng cách 3 x 3 cm, độ cắm sâu bằng 1/3 đến 1/2 độ dài của vảy. Để kích thích ra dễ có thể dùng NAA và nồng độ 1.000 ppm phun vào vảy sẽ nâng cao tỉ lệ ra rễ và thúc đẩy sự ra rễ nhanh của củ.
– Chăm sóc sau giâm: Hàng ngày dùng bình phun nước vào vảy, làm cho vảy tiếp xúc tốt với chất nền, duy trì nhiệt dộ nhà giâm từ 20 – 25oC, độ ẩm của nền từ 80 – 85%, sau đó giảm dần việc tưới nước đề phòng vảy bị thối. Để duy trì nhiệt độ có thể dùng nilon hoặc lưới cản quang che phủ. Sau 40 – 60 ngày ở vết cắt của vảy sẽ ra củ con có rễ. Mỗi vảy có thể sinh sản ra 1 – 5 rễ con, đợi cho củ con lớn thì bứng củ con đi trồng chỗ khác và chăm sóc ở chế độ riêng.
3. Nhân giống cây hoa ly từ củ:
– Tách củ là phương pháp nhân giống bằng cách tách củ con được sinh ra từ củ mẹ. Có thể trồng cây chuyên để nhân giống. cũng có thể kết hợp với sản xuất hoa vụ Hè để nhân giống, nhưng do khí hậu nóng nên chất lượng củ loại này kém.
3.1. Chuẩn bị củ giống mẹ:
– Chọn củ không sâu bệnh, đường kính từ 8 – 10cm ngâm vào dung dịch foocmalin 40% pha theo tỉ lệ 1/80 lần trong 30 phút, lấy ra rửa sạch hong khô.
3.2. Chuẩn bị vườn ươm:
– Lily là cây ưa ẩm nhưng không chịu được úng, nên đất trồng lily phải chọn những vùng đất cao ráo, thông thoáng và có điều kiện tưới nước. Theo kinh nghiệm thì nên chọn đất ở những vùng núi cao, ven sông, ven hồ hoặc bán đảo là tốt nhất. Đất làm vườn ươm phải là đất nhiều mùn, tơi xốp, thoát nước tốt, luống rộng 100 – 120cm, đọ dài tùy ý.
3.3. Trồng và chăm sóc
– Trồng với khoảng cách cây 12x15cm. Mỗi luống rạch 5 – 6 hàng sâu 5 – 7cm; rạch xong tưới đủ nước, đợi nước ngấm đi rồi đặt củ vào hàng, cách nhau 15cm, sau đó lấp đát dày 5 – 8cm.
3.1. Chăm sóc cây con:
– Sau khi cây mọc đều thì bón một lượng đạm ure nhỏ (1/1000), có thể sử dụng NH4SO4 để điều chỉnh độ chua. Mỗi ha bón 37kg đạm ure hoặc 74kg đạm sunfat amon. Hòa phân trên vào nước để tưới, sau 20 ngày bón một lần nữa giống như trên. Đến khi cây chuẩn bị có nụ, mỗi ha bón 75kg diamon phốt phát (DAP) + 22,5kg monokaly phốt phát (KH2PO4) để cho củ lớn nhanh. Khi cây có nụ thì phun lên lá dung dịch sunphat kali và axit boric với lượng 25kg – 30kg cho mỗi ha. Cứ 7 ngày phun 1 lần cho đến khi cây ra hoa. Nếu hòa vào nước thì nồng độ phân là 0,3%, nếu phun lên là thì nồng độ là 0,2%.
Củ giống cây hoa ly
– Làm cỏ xóa xới: Trong quá trình trồng cần xóa xới nhẹ, xới nông để tránh tổn thương rễ.
– Nhổ bỏ cây bệnh: khi cây bệnh, có sự tiêu hoa dinh dưỡng nhiều, không có lợi cho sinh trưởng của cây, do vậy phải nhổ bỏ và tiêu hủy kịp thời cây bị bệnh.
– Đào củ giống:
Ở vùng núi cao thường đầu tháng 12, lá bắt đầu khô héo, vùng đồng bằng đầu và giữa tháng 1 đến tháng 3 lá héo, cần đào củ ngay để bảo quản. Khi đào củ, không tách ngay củ mẹ với củ con mà đưói 1 – 2 ngày, sau khi loại bỏ đất bùn và rễ rồi mới tách. Cần chú ý là củ được đào về phải để nơi khô mát, tránh không được phơi ra ánh nắng khô vảy. Khi thu hoạch nếu thân cây chưa khô hẳn thì hãy đặt cây vào nơi dâm mát 2 – 3 ngày, để cho dinh dưỡng trong thân dồn hết về củ rồi mới cắt thân.
– Phân loại củ:
Mỗi củ mẹ đều có thể 3 – 5 củ con tương đối lớn (chu vi 5cm trở lên) và 4 – 8 củ nhỏ (chu vi 1 – 3). Củ mẹ được phân loại theo độ lớn để dùng, những củ con có chu vi 5cm trở lên trồng sau 1 vụ có thể thành củ nhỡ để sản xuất hoa (10cm trở lên). Củ có chu vi 1 – 3cm thì phải trồng 2 vụ mới thành củ sản xuất hoa được.
Nguồn: Admin tổng hợp