Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý giáo dục, đào tạo

Thứ hai, 01 Tháng 2 2016 11:07

18591 Lượt xem

(LLCT) – Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, giáo dục và đào tạo liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ hết sức hệ trọng là chuẩn bị nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để hoàn thành các mục tiêu đặt ra.

Quan điểm xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ đổi mới là: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”([1]1); “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(2). Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (6-2014) đã ra Nghị quyết số 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, là giải pháp quan trọng nhất để xây dựng, hoàn thiện con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu.

Cùng với những thành tựu chung của công cuộc xây dựng đất nước, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Cụ thể là đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý… Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định(3).

Có được những thành tựu đó, Đảng ta đã khẳng định trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc; sự quan tâm, chăm lo của toàn hệ thống chính trị, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước(4).

Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo nước ta còn yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu, nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng được những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã chỉ rõ chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Mà một trong những yếu kém đó là: “Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động”(5).

Một trong những nguyên nhân của những yếu kém ấy, đó là: “Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ”(6).

Liên quan đến vấn đề tổ chức và quản lý giáo dục – đào tạo, có thể thấy, sự phối hợp liên ngành còn yếu, các giải pháp còn thiếu đồng bộ. Chính vì vậy, để khắc phục những yếu kém nói trên, vận dụng quan điểm hệ thống vào việc tổ chức, quản lý lĩnh vực giáo dục – đào tạo là vô cùng quan trọng và cần thiết. Nghị quyết Trung ương 8 khẳng định: “Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp”(7).

Lĩnh vực giáo dục và đào tạo như một hệ thống thì các yếu tố chủ yếu của nó là nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, cách thức kiểm tra, đánh giá, số lượng, chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Tương ứng với các yếu tố đó, môi trường hoạt động của lĩnh vực giáo dục và đào tạo chủ yếu là các chính sách và pháp luật của Nhà nước, mà sự thuận lợi hay khó khăn của môi trường sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của hệ thống giáo dục – đào tạo.

Trong mối quan hệ chủ thể – khách thể thì Nhà nước và các tổ chức giáo dục – đào tạo đóng vai trò là người tổ chức, quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, theo quan điểm hệ thống, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực giáo dục và đào tạo thể hiện ở sựthống nhất giữa hệ thống các chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện trong hoạt động giáo dục và đào tạo. Nghĩa là, để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay có hiệu quả thì cần phải có những nguyên tắc tổ chức, quản lý và sự thể chế hóa những nguyên tắc ấy thông qua những giải pháp cụ thể tương ứng trong việc tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục – đào tạo.

Từ những phân tích trên, đổi mới lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo hướng căn bản và toàn diện như quan điểm của Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, theo chúng tôi, cần quán triệt một số quan điểm, giải pháp sau:

Thứ nhất, về phương pháp luận cần nhận thức đúng và từ đó có những biện pháp giải quyết phù hợp mối quan hệ giữa các mục tiêu dân trí, nhân lực, nhân tài trong phát triển giáo dục và đào tạo.

Một nền dân trírộng là điều kiện cần thiết để đào tạo được nguồn nhân lực thích hợp phục vụ phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời dân trí vừa là thành tố vừa là cơ sở để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là dân tộc yếu”(8). Mức độ dân trí có thể đạt được tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, không thể mong muốn vào một mức độ dân trí quá cao thoát ly khỏi điều kiện kinh tế, song cũng không chờ có kinh tế phát triển cao mới mở rộng và nâng cao dân trí.

Dân trí là điều kiện để phát triển nhân lực, nhưng không phải mặc nhiên dân trí sẽ biến thành nhân lực, mà phải có kế hoạch để đào tạo, phát triển nhân lực, nhất là lực lượng lao động lành nghề trong một cơ cấu đồng bộ.

Về nhân tài, một mặt, phải tìm được những cách thức thích hợp để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, nhưng đồng thời, nhân tài sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền dân trí rộng và trên cơ sở việc đào tạo nhân lực tốt. Do vậy, “mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học. Phát triển hệ cao học, đẩy mạnh đào tạo nghiên cứu sinh”(9) là công việc bức bách đang đặt ra cho nước ta hiện nay.

Khẳng định tính đúng đắn của việc giải quyết mối quan hệ ấy, chúng ta cần: “Sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo. Trọng dụng người tài. Khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say mê học tập và tu dưỡng tiền đồ bản thân và tương lai đất nước(10).

Thứ hai,cần thấu suốt quan điểm: “Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội”(11). Đặc biệt, trong việc xác định mục tiêu giáo dục và đào tạo phải xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”(12). Ở đây cần phải tập trung vào các biện pháp:

– Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục – đào tạo, cải tiến thi cử. Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân”(13) .

Xuất phát từ thực trạng xã hội, nhu cầu xã hội để xác định mục tiêu giáo dục của các cấp học. Chẳng hạn, ở cấp tiểu học là phát triển thói quen về học tập cơ bản; ở cấp trung học cơ sở là bồi dưỡng năng lực cơ bản và tố chất của học sinh; ở cấp trung học phổ thông là phát triển năng lực hướng nghiệp phù hợp; ở cấp đại học là phát triển năng lực khoa học và phẩm chất nghề nghiệp tương lai của sinh viên.

Trên cơ sở mục tiêu đã xác định sẽ xây dựng chương trình, giáo trình, sách giáo khoa bằng cách tiếp cận “năng lực và phẩm chất” của người học, tức là giáo dục cho học sinh, sinh viên không phải chủ yếu là nhồi nhét kiến thức mà là làm sao cho học sinh, sinh viên biết làm theo năng lực và phẩm chất của mình, thông qua đó phát triển năng lực và phẩm chất của mình. Đặc biệt, cần nhấn mạnh nội dung giáo dục phải mang tính toàn diện, như Hồ Chí Minh đã nói: “Trong việc giáo dục và học tập phải chú ý đầy đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật và lao động sản xuất”(14). Trong giáo dục, cần: “Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp”(15). Nhờ đó, xã hội mới có được những “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.

– Tập trung giải quyết dứt điểm những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục do mặt trái của cơ chế thị trường gây nên; muốn vậy phải xây dựng một hệ thống pháp quy tốt để vừa giữ nghiêm kỷ cương phép nước, vừa bảo vệ sự trong sáng của nếp sống văn hóa Việt Nam.

– Phải thực hiện tính công bằng xã hội trong giáo dục. Cụ thể là, quan tâm đến việc bảo đảm cơ hội giáo dục cho người học thuộc các diện chính sách; kết hợp sự phát triển có trọng điểm về giáo dục – đào tạo với sự phát triển giáo dục – đào tạo ở các vùng lãnh thổ, tránh gây nên sự chênh lệch xa về nhịp độ và trình độ giữa các vùng. Đây cũng chính là sự thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, phải không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo. Muốn vậy, điểm cốt lõi phải quan tâm là:

– “Giáo dục – đào tạo phải theo hướng cân đối giữa “dạy người”, dạy chữ, dạy nghề, trong đó “dạy người” là mục tiêu cao nhất”, như Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”(16).

– Giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng trong giáo dục – đào tạo. Một mặt, phải tìm cách huy động nguồn lực khác nhau để tạo điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục, phải ưu tiên đầu tư xây dựng các trường sư phạm, nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các cấp, có đầy đủ năng lực và phẩm chất cách mạng, tăng cường cơ sở vật chất, sử dụng các biện pháp công nghệ hiện đại trong các trường học, cần phát huy nội lực, đồng thời nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; Mặt khác,phải hình thành các hệ thống tổ chức và cơ chế đặc biệt để kiểm tra chất lượng, chống các tệ nạn và tiêu cực trong giáo dục – đào tạo. Muốn thỏa mãn đồng thời yêu cầu tăng số lượng, đảm bảo chất lượng và nâng cao hiệu quả giáo dục – đào tạo trong điều kiện nguồn lực rất hạn hẹp thì đòi hỏi cần phải hết sức năng động, sáng tạo, phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống giáo dục – đào tạo, phải phối hợp hài hòa giữa các đơn vị với nhau trong một nhà trường, giữa các trường với nhau trên một địa bàn, giữa các mô hình trường với nhau trong toàn bộ hệ thống giáo dục – đào tạo. Để làm được điều đó phải có quan điểm phức hợp, toàn cục, chống các xu hướng bản vị, cục bộ.

Bốn là,cần quán triệt quan điểm: “Giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân”(17). Điều này đòi hỏi cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục – đào tạo. Cụ thể là, tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức Đảng để thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo trong các trường học; chú ý bồi dưỡng chính trị, tích cực phát triển đảng trong các trường học. Đảng ta khẳng định: “Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”(18). Đồng thời, tăng cường và đổi mới công tác quản lý của Nhà nước đối với giáo dục – đào tạo. Đảng ta nhấn mạnh: “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”(19).

Trước mắt từ nay đến năm 2020, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cần tập trung thực hiện những giải pháp sau đây:

– Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hóa sự phát triển giáo dục – đào tạo. Đưa giáo dục – đào tạo vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của cả nước và từng địa phương. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

– Tăng cường phân cấp quản lý một cách hợp lý. Các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ sở giáo dục – đào tạo cần thực hiện đúng chức năng của mình.

– Thiết lập các cơ chế để nâng cao tính tự chủ đi đôi với việc nâng cao tính chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục – đào tạo, nhất là các trường đại học.

– Mở rộng dân chủ ở các cơ quan quản lý giáo dục – đào tạo nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trong việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

– Cùng với việc xác lập thể chế dân chủ, đồng thời phải kiện toàn hệ thống thanh tra giáo dục,  đưa công tác thanh tra vào nề nếp. Chỉ có như thế, quyền tự chủ mới không dẫn đến tình trạng vô chính phủ.

– Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục – đào tạo. Để làm được điều đó, cần làm cho các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban ngành, địa phương, các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, cho đến tận người dân quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Ở đây, cần quán triệt quan điểm giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục – đào tạo trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nước.

Để thực hiện được các giải pháp đó, như Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo”(20).

Như vậy, tổ chức và quản lý giáo dục – đào tạo với biện pháp phối hợp liên ngành, với các giải pháp được thực hiện một cách đồng bộ, mang tính hệ thống, sẽ mang lại hiệu quả giáo dục – đào tạo cao, góp phần vào sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2015

(1), (2), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.107, 21, 31.

(3), (4), (5), (6), (7), (12), (13), (15), (18), (19), (20) Xem ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr. 115 – 116, 116-117, 117, 118 -119, 120, 127, 128, 128, 126, 134, 128.

(8), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8,Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.8, 759.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.63.

(10), (17) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.40, 32.

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.10, tr.10.

TS Nguyễn Ngọc Khá

Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh