Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non_Bùi Thị Hương

MỤC LỤC

 

Trang

PHẦN I: PHẦN ĐẶT VẤN ĐỀ

2

1. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm

 

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3

1. Thực trạng về việc tổ chức hoạt động giáo dục ….

3

a/ Thuận lợi

3

b/ Khó khăn

3

2. Những giải pháp (biện pháp) đã được …………

4

1. Giải pháp thứ nhất: Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ …

5

2. Giải pháp thứ 2: Xây dựng môi trường gần gũi, thân thiện với trẻ.

6

3. Giải pháp thứ 3: Rèn kỹ năng sống qua tích hợp vào các hđ….

6

4. Giải pháp thứ 4: Rèn kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi

7

5. Giải pháp thứ 5:  Ứng dụng công nghệ thông tin

7

6. Giải pháp thứ 6: Phối hợp với phụ huynh

8

3. Thực nghiệm sư phạm

14

4. Kết luận

16

5. Kiến nghị với các cấp quản lý

16

PHẦN III: MINH CHỨNG

16

PHẦN IV: CAM KẾT

17

 

 

 

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ
nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam “Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Nhưng
trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều
các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con cái, chính vì vậy trẻ
hay thu mình và rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điều này làm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn diện
của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Vì vậy việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn
mình một cách có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng
những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi thì trẻ cần có những sự tác động khác nhau đến kỹ năng sống của trẻ. Chăm sóc và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần, là nền tảng giúp cho quá trình học tập lâu dài của trẻ sau này.

Là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi nhận thức đặc biệt rằng ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi việc giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau mà quyết định phải xuất phát từ trẻ, vì thế học phải hết sức gần gũi với cuộc sống, nội dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm củatrẻ, trẻ cần có điều kiện để cọ sát, các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm,tập tành, thực hành và áp dụng. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp, phải được động não, sắm vai, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ phải biếtthích nghi, thể hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề mộtcách tự lập. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Song tôi thấy thực tế tại trường tôi thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chưa được chú trọng nên trẻ lớp tôi hoàn toàn chưa có những kỹ năng cơ bản ấy. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ những kỹ năng sống tốt nhất? và dạy dưới hình thức nào? Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non”, nhằm hướng đến mục tiêu phát triển, nuôi dưỡng những giá trị sống, làm nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực cho trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 4 lĩnh vực nền tảng.

 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

  1. Thực trạng việc tổ chức hoạt động giáo dục lĩnh vực kỹ năng sống cho trẻ:

   a.Ưu điểm.

– Được sự quan tâm, hỗ trợ và chỉ đạo sát sao cuả Ban giám hiệu nhà trường, cũng như sự đồng tình giúp đỡ của chị em đồng nghiệp và các bậc phụ huynh.

– Phòng học rộng rãi, thoáng mát, đủ diện tích cho trẻ hoạt động trang thiết bị, đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ .

– Đa số trẻ ngoan lễ phép, biết vâng lời và đi học chuyên cần, trẻ mẫu giáo lớn có sự nhận thức cao nên việc dạy trẻ ở một lúa tuổi đều có sự thuận lợi.

– Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lứa tuổi mẫu giáo lớn và có nhiều thời gian tiếp xúc với trẻ nên  nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ và là một giáo viên tôi luôn tâm huyết với nghề, nhiệt tình, năng động trong mọi công việc. Thực hiện tốt chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ của Bộ giáo dục và đào tạo.

b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế.

 – Về phía giáo viên: Giáo viên còn chưa chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Không mạnh dạn tự tin, chưa nhiệt tình và chưa phối kết hợp chặt chẽ với với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

 – Về phía phụ huynh, khái niệm rèn kỹ năng sống cho trẻ có lẽ còn xa lạ và mới mẻ. Họ chưa hiểu mục đích và tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ.

– Một số phụ huynh thờ ơ và bỏ qua những hành động sai của trẻ nên vô tình hình thành thói quen ở trẻ, khiến cho giáo viên rất khó khăn trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.

 – Khả năng nhận thức của trẻ trong lớp không đồng đều, mỗi trẻ có một tính cách, một tâm lý khác nhau, đòi hỏi giáo viên phải áp dụng mỗi trẻ một hướng giáo dục khác nhau tuỳ theo tâm lý của từng đứa trẻ.

– Một số trẻ còn vụng về, lại có cá tính bướng bỉnh, chưa có thói quen nề nếp tốt; rụt rè, thiếu mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến; khi phát biểu nói không rỏ ràng, trả lời cộc lốc, không trọn câu; khi làm sai hoặc có lỗi với người khác ít nói lời xin lỗi, ai cho gì ít cảm ơn, ít thể hiện các kỹ năng của mình; vì thiếu kinh nghiệm nên khi làm việc gì trẻ có ý nghĩ sợ làm sai, sợ mình không làm được, vì thế trẻ không muốn làm cũng như tự tin thể hiện kỹ năng của mình đã có được

– Lớp tôi có một trẻ chậm phát triển về mọi mặt.

Để giải quyết những hạn chế nêu trên không những cần có sự nỗ lực của giáo viên mà còn cần sự giúp đỡ, phối kết hợp của gia đình và nhà trường. Và trước thực trạng đó, cũng như nhận thức được tình hình thực tế hiện nay tôi đã suy nghĩ làm thế nào để trẻ 5-6 tuổi có kỹ năng sống nhằm đáp ứng nhu cầu hiện nay , nên tôi đã tập trung vào một số biện pháp sau:

 2. Biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

 Biện pháp 1: Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ đồng nghiệp.

 Để có thể thực hiện tốt “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6
tuổi” trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích
yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc được các phương
pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng,
không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã học vào
thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 5 – 6 tuổi lớp tôi có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề đòi hỏi tôi phải
không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm
non 5- 6 tuổi. Tham khảo, học tập qua sách, tài liệu, tập san, qua các phương tiện thông tin hiện đại. Tham gia các đợt kiến tập và các chương trình chuyên đề  do phòng tổ chức, nắm được các phương pháp để giáo dục trẻ các kỹ năng. Giáo viên phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo mọi hành vi, cử chỉ, lời nói, cách ứng xử, cách giải quyết vấn đề. Chia sẻ với đồng nghiệp về một số điều nên làm và không nên làm trong quá trình giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ để giúp trẻ tự tin hơn, dám nghĩ dám tìm tòi suy nghĩ và đưa ra ý kiến của mình.

Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Những người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề…Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn.

Biện pháp 2: Xây dựng môi trường gần gũi, thân thiện với trẻ.

Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ. Có môi trường trong lớp và môi trường ngoài lớp học. Môi trường trong lớp như các góc hoạt động, đồ dùng học tập có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và một số kỹ năng. Môi trường ngoài lớp như góc thiên nhiên, vườn cây giúp trẻ phát triển tình cảm xã hội.

Đối với trẻ mầm non thì trường học là nhà, cô giáo như mẹ hiền vì vậy cần phải xây dựng một môi trường gần gũi, thân thiện để tạo cho trẻ có cảm giác an toàn và trẻ cảm thấy đến lớp như đang ở nhà qua đó cũng nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ để việc giáo dục trẻ được dễ dàng hơn.

Hơn nữa, để tạo sự thân thiện với trẻ cô vừa đóng vai người mẹ chăm sóc dạy dỗ trẻ vừa đóng vai người bạn chơi cùng với trẻ. Vào đầu năm học, để tạo sự gần gũi với trẻ vào những giờ đón trẻ tôi thường trò chuyện với trẻ cho trẻ chơi tự do ở các góc …Qua đó nắm bắt tâm lý, đặc điểm tính cách của từng trẻ và tiếp tục ở những tuần học sau, chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại chỗ  ngồi hay góc chơi mà trẻ chọn  để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể thực hiện ở mọi lúc mọi nơi, bất cứ hoạt động nào cũng có thể lồng ghép được.

Biện pháp 3: Rèn kỹ năng sống qua tích hợp vào các hoạt động học và các hoạt động vui chơi khác.

 Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được thực hiện theo kế hoạch cụ thể, theo từng chủ đề để đưa ra những kỹ năng thích hợp giáo dục trẻ khiến cho trẻ không bị nhàm chán, tạo cho trẻ có cảm giác mới mẻ và hứng thú tìm hiểu. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể tích hợp trong các mặt giáo dục, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tùy vào những chủ đề theo tuần, tháng mà tôi chọn những kỹ năng sống phù hợp để hình thành cho trẻ. Cụ thể :

Kỹ năng giao tiếp và kỹ năng thích nghi là hai kỹ năng mà tôi lựa chọn để tích hợp vào chủ đề trường mầm non.

 Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ là rất cần thiết, đòi hỏi cô giáo phải luôn gần gũi, hiểu trẻ và luôn tạo mọi cơ hội để trẻ được nói thật thoải mái ở mọi nơi để trẻ có cơ hội phát triển toàn diện. Trong tất cả mọi hoạt động của trẻ tôi luôn dùng nhiều trò chơi, câu đố để kích thích trẻ tham gia, qua đó giúp trẻ giao tiếp được tự nhiên hơn.

Bên cạnh đó kỹ năng thích nghi cũng khá là quan trọng mà tôi muốn hình thành cho trẻ ngay từ đầu năm học để trẻ có thể hòa nhập và phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Tôi còn dạy cho trẻ những hành vi văn hóa trong ăn uống như biết mời trước khi ăn, trong khi ăn không nói chuyện, ăn chậm, nhai kỹ, việc này tôi thường lồng ghép trong các giờ học, giờ sinh hoạt hằng ngày. Ngoài ra tôi còn dạy trẻ thói quen biết xếp hàng khi rửa tay, khi ăn cơm và xếp hàng tập thể dục, dạy trẻ thói quen biết bỏ rác đúng nơi quy định và thói quen biết xin lỗi và cảm ơn: để trẻ thực hiện tốt các thói quen này tôi thường làm gương cho trẻ noi theo.

Biện pháp 4: Rèn kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.

 Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của trẻ ở nhà. Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp để trẻ có được nề nếp và thói quen tốt, biêt thể hiện đúng hành vi theo chuẩn mực, góp phần hình thành nhân cách của trẻ và sẽ giúp trẻ có kỹ năng sống tốt sau này.

Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

Để việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ gây hứng thú và đạt hiệu quả hơn tôi đã tìm và sử dụng những hình ảnh ngộ nghĩnh, những đoạn phim, câu chuyện có nội dung giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ xem.

Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ.

 Sự phối kết hợp giữa phụ huynh và giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tạo được nền tảng vững chắc, kịp thời sửa chửa những lêch lạc của trẻ để trẻ sau này trở thành người con ngoan trò giỏ, là người công dân có ích cho xã hội.

Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống đối với  trẻ  mẫu giáo. Trẻ có thể đối xử thô bạo đối với bạn sau một đoạn phim hành động, hay trẻ có những lời nói không hay đối với bố, mẹ, khi không đồng ý cho trẻ chơi điện tử . Để phụ huynh nhận thức ý nghĩa của vấn đề để cùng nhà trường giáo dục trẻ.

Phần lớn các bậc phụ huynh làm nghề nông nên họ ít quan tâm đến con cái mình, qua các buổi họp phụ huynh tôi luôn phổ biến và tuyên truyền cách nuôi dạy con theo  khoa học và cách giáo dục kỹ năng sống đối với trẻ lúc ở nhà. Phụ huynh phải luôn mẫu mực trong giao tiếp ở nhà để trẻ noi theo. Đồng thời nhắc nhở cháu trong  giao tiếp với bạn bè, người lớn.

Tôi luôn trao đổi với phụ huynh hàng tháng qua sổ liên lạc vê sự tiến bộ của các cháu để phụ huyn kịp thời nắm bắc. Qua thời gian sau trẻ tiếp bọ trong giao tiếp nhờ sự giáo dục bằng phương châm “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.

3. Thực nghiệm sư phạm.

a. Mô tả cách thực hiện:

Biện pháp 1: Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ đồng nghiệp.

Để có thể thực hiện tốt “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi”, trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ lớp tôi có được những kỹ năng sống cơ bản thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề đòi hỏi tôi phải không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình giáo dục trẻ mầm non 5-6 tuổi.

 – Tham gia các đợt kiến tập và các chương trình chuyên đề do phòng tổ chức.

 – Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm non:

  + Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non (nhà xuất bản đại học quốc gia)

  + Sách các hoạt động phát triển kỹ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo, sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống.

  + Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tôi chủ nhật hàng tuần…

 Ví dụ: Khi cô nhìn thấy bé này đẩy bé khác cô hãy nói với bé bị đẩy, nói một cách cương quyết: “ Mình không thích bạn xô đẩy mình như vậy, cánh tay là để ôm chứ không phải là để đẩy nhau”.

 – Không nên bắt trẻ hoạt động liên tục mà phải để dành thời gian và khoảng trống cho trẻ suy nghĩ.

 – Thỉnh thoảng cô giáo có thể tổng kết kết luận nhưng với thái độ thư giãn, thoải mái, gợi mở.

 Ví dụ: Các con đã làm được nhiều việc mà không phụ thuộc vào người khác, các con là những em bé ngoan, các con rất xứng đáng nhận được một tràng pháo tay. Điều này sẽ giúp trẻ tự tin hơn, dám tự tìm toì và suy nghĩ, dám đưa ra ý kiến của mình.

Biện pháp 2: Xây dựng môi trường gần gũi, thân thiện với trẻ.

Để có môi trường dạy kỹ năng sống tốt cho trẻ tôi thực hiện như sau:

* Tôi đã thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ. Cũng từ biện pháp này, tôi có dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ vì mỗi trẻ rất khác nhau và giúp trẻ sớm hình thành các kỹ năng sống.

 Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa phần lớn cha mẹ thừơng lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh, dán các nội dung cần phối hợp với phụ huynh vào đó để các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.

Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho con trẻ. Tại lớp, tôi đã trang trí, sắp xếp góc thư viện và văn học, để nơi dễ hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề: “Thư viện trường mầm non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm với của trẻ. Vận động cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho góc thư viện của trẻ tại trường, tại lớp và ngay ở gia đình. Ngoài ra lớp học là nơi mà trẻ được tiếp xúc hàng ngày để có tác động tích cực kỹ năng sống của trẻ, nên tôi sắp xép trang trí lớp học sao cho phù hợp, đẹp mắt, hấp dẫn trẻ, làm những đồ dùng, đồ chơi gần gũi quen thuộc với trẻ sắp xếp gọn gàng trên giá vừa tầm tay với của trẻ. Thông qua việc sắp xếp tạo môi trường trong lớp góp phần rèn cho trẻ kỹ năng gọn gàng ngăn nắp.

Tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ hiếu động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.

Biện pháp thứ 3: Rèn kỹ năng sống qua tích hợp vào các hoạt động học và các hoạt động vui chơi khác.

 Ví dụ: trong lớp tôi có cháu Dương ít nói, tôi thường  cho cháu chơi cùng một nhóm gồm những trẻ mạnh dạn hơn. Trong giờ chơi, tôi cho trẻ chơi trò chơi đoán tên bạn, tôi hỏi trẻ: “Cô đang nghĩ về một bạn gái có mái tóc dài, khuôn mặt tròn và mũm mĩm, Dương đoán xem cô đang nghĩ về bạn nào? Tại sao con biết ?’’. Trẻ sẽ nói ngay tên bạn đó và vì sao trẻ lại đoán được.

 Để trẻ có cảm giác gần gũi và thân thiện tôi không dùng từ ngữ mang tính chất ra lệnh hay sai khiến sẽ làm cho trẻ có cảm giác bị bắt buộc, miễn cưỡng phải làm việc đó, mà tôi chỉ nói nhẹ nhàng, vỗ về trẻ . Ví dụ : Tôi nói “ Cô muốn các con hãy cất hết ghế đúng nơi quy định để ra sân tập thể dục nào’’, Không nên dùng câu : “Cất hết ghế đi”.

 Một kỹ năng nhỏ trong giao tiếp mà lớp tôi dang chủ nhiệm trẻ thể hiện hạn chế đó là kỹ năng văn hóa chào hỏi. Thế  nên, ngay từ đầu trẻ đến lớp tôi đã chú ý nhắc trẻ chào mẹ, chào cô, chào các bạn. Ví dụ : Nếu trẻ đến lớp quên hoặc không chủ động chào cô để vào lớp thì tôi sẽ nói “Cô chào con, con hãy chào tạm biệt mẹ đi nào’’ nhằm gây sự chú ý của trẻ đến việc chào hỏi lễ phép.

 -Trong chủ đề bản thân tôi lựa chọn hình thành kỹ năng tự chăm soc bản thân gồm tự mặc quần áo, tự chăm lo vệ sinh cá nhân và tự cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định. Ví dụ: Vào giờ đón và trả trẻ tôi khuyến khích trẻ tự cởi và mặc áo khoác, dép, mũ và cất đồ dùng cá nhân vaò tủ của mình. Ngoài ra tôi cho trẻ đọc các bài thơ, câu chuyện như “ Bé ơi, giấc mơ kỳ lạ.. Tôi giới thiệu về nội dung câu chuyện, bài thơ nhằm giúp trẻ hiểu được tác dụng của việc rửa tay ,đánh răng… để trẻ thích thú và tự giác thực hiện.

-Trong chủ đề gia đình tôi lồng ghép kỹ năng tự bảo vệ , biết yêu thương mọi người. Thông qua những bài thơ câu chuyện trong chủ đề như: Làm anh, giữa vòng gió thơm, sự tích bông hoa cúc trắng… tôi dạy trẻ biết quan tâm , yêu thương và giúp đỡ những người thân trong gia đình. Tôi cũng thường xuyên trò chuyện, đưa ra những tình huống ( khi con bị lạc mẹ ở giữa đám đông con sẽ làm gì, hay khi bị ai bắt nạt thì con kêu cứu như thế nào, khi các con thấy có khói hoặc cháy ở đâu các con sẽ làm gì…) để trẻ suy nghĩ và vận dụng vốn hiểu biết của mình để giai quyết vấn đề. Thông qua hoạt động giúp trẻ có sự tư duy logic, biêt cách diễn đạt suy nghĩ của mình và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.

Biện pháp 4: Rèn kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.

 Trẻ 5-6 tuổi bắt đầu hình thành ý thức mãnh mẽ, những tác động xung quanh trẻ ở mọi lúc, mọi nơi đều có mặt tích cực. Vì vậy tôi luôn chú ý, quan tâm để rèn cho trẻ có hành vi, thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động đúng.

 Ví dụ: Giờ trả trẻ, tôi luôn niềm nở, ân cần với trẻ để tạo không khí vui tươi, phấn khởi. Trong giờ học tôi khuyến khích trẻ tự lấy và cất đồ dùng, đồ chơi qua đó hình thành ở trẻ có kỹ năng tự phục vụ. Giờ hoạt động ngoài trời tôi tổ chức cho trẻ giúp các cô nhặt lá, rác trên sân qua đó hình thành ở trẻ kỹ năng hợp tác.

Ví dụ : Khi dẫn trẻ đi chơi trong sân trường thấy có nhiều rác cô hỏi: Con thấy sân trường sạch chưa ? Vì sao ? Giờ con phải làm gì ? Như vậy trẻ biết rác nhiều là không sạch và biết cùng nhau nhặt bỏ vào thùng. Tiếp theo tôi kể cho trẻ nghe những hành vi , hành động liên quan đến bảo vệ môi trường mà độ tuổi trẻ có thể làm được như: không ngắt hoa, bẻ cành, không vứt rác bừa bãi… Cho trẻ tham gia hoạt động thực hành chăm sóc cây, tưới nước, nhổ cỏ…Hay buổi sáng hoạt động phân biệt các loại rau, củ, quả ,buổi chiều tôi cho trẻ dùng đất nặn có những gam màu cơ bản cho trẻ tạo hình các loại rau quả. Từ đó dần phát triển kỹ năng quan sát, ghi nhớ về các sự vật, đồ vật và những gì trong cuộc sống xung quanh trẻ.

 Có thể nói rằng các hoạt động, hành động của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi có được nề nếp, thói quen tốt, biết thể hiện đúng các hành vi theo chuẩn mực có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mỗi cá nhân trẻ, góp phần hình thành nhân của trẻ và sẽ giúp trẻ có kỹ năng sống tốt sau này.

Biện pháp thứ 5: Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

Để việc giáo dục kỹ năng sống gây hứng thú và đạt hiệu quả hơn cho trẻ, tôi đã tìm và sử dụng các hình ảnh trong quá trình giáo dục trẻ cho trẻ quan sát

 Ví dụ : Hình ảnh một bạn cõng một bạn bị khuyết tật đi học để trê biết giúp đỡ người khác, câu chuyện về chú ếch bị điếc nhằm giáo dục trẻ biết thể hiện tình yêu thương qua cử chỉ, lời nói.

Sử dụng những bài học có hình ảnh ngộ nghĩnh về các hành vi, các kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ, các câu chuyện, đoạn phim có nội dung giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ xem và trò chuyện với trẻ về nội dung các câu chuyện đó.

Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ.

 Phụ huynh là cầu nối giũa nhà trường, gia đình và xã hội bởi trẻ sống và giao tiếp với các thành viên trong gia đình nhiều hơn cô giáo và bạn bè ở trường mầm non .

Ví dụ: Vào buổi họp phụ huynh đàu năm tôi mạnh dạn đánh giá tình hình của lớp, trong đó tôi luôn chú trọng đến các kỹ năng sống của trẻ: sự mạnh dạn trong giao tiếp, thái độ, cử chỉ, lời nói …để phổ biến cho các bậc phụ huynh được biết và để thực hiện có tính thuyết phục cao và nhằm nhắc nhở phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ.

Trước hết, cha mẹ và người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Ví dụ: Hướng dẫn và nhắc nhở trẻ đội mũ bảo hiểm khi đi trên xe máy mỗi buổi đến trường, khi tham gia giao thông.

Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe: Người lớn nên đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc truyện cho trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ. Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Ví dụ: Khi kể chuyện “Ba cô gái” tôi đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện. Trong gia đình, cha mẹ luôn phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe, hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình. 

Khuyến khích trẻ nói lên sở thích, quan điểm của trẻ: Nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cố gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động xã hội và các buổi thảo luận sau này.

Ví dụ: Như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì tôi, cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong nhà.

Cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống: Dạy trẻ biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống. Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình.

b. Kết quả đạt được.

Sau một thời  gian thực hiện những biện pháp nêu trên, lớp tôi đã đạt được những kết quả như sau :

 * Về phía học sinh:

 – 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập.

 – Trẻ đi học đều dạt tỷ lệ 98% , trẻ chăm ngoan đạt từ 97% trở lên .

 – Trẻ có ý thức học tập tốt, biết lao động tự phục vụ, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn, đĩa trong giờ ăn, tự xếp gối và chăn trước và sau khi ngủ…

 – 100% trẻ khỏe mạnh, sạch sẽ, mạnh dạ, hồn nhiên.

Việc áp dụng các biện pháp vào tình hình thực tế ở lớp đạt kết quả cụ thể như sau :

Bảng kết quả sau khi sử dụng các biện pháp trên: Tổng số lớp 30 trẻ.

Nội dung khảo sát

Đạt

 

Chưa đạt

 

Số trẻ

%

Số trẻ

%

1. Kỹ năng giao tiếp

28

93,3

2

6,7

2. Kỹ năng thích nghi

28

93,3

2

6,7

3. Kỹ năng khám phá thế giới xung quanh

26

86,6

4

13,4

4. Kỹ năng tự chăm sóc bản thân

29

96,6

1

3,4

5. Kỹ năng tạo niềm vui

26

86,6

4

13,4

6. Kỹ năng tự bảo vệ

23

76,6

7

23,4

7. Kỹ năng làm việc đội nhóm

24

80

6

20

8. Kỹ năng giải quyết các vấn đề

25

83,3

5

16,7

 

*) Về phía giáo viên :

 – Bản thân tôi nắm chắc nội dung, phương pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ

 – Tự tin sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh tạo được niềm tin đối với phụ huynh

 *) Về phía phụ huynh :

 – Phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, luôn quan tâm đến sụ phát triển sau này của trẻ, thường xuyên trao đổi với giáo viên qua nhiều hình thức.

 – Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái ngày càng gần gũi , ít la mắng, quát nạt con và hướng dẫn trẻ biết lao động tự phục vụ bản thân.

 c. Điều chỉnh, bổ sung sau thực nghiệm.(sau khi áp dụng thực tiễn)

Tuy nhiên sau khi tiến hành các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở lớp tôi cũng rút ra một số diều chỉnh và bổ sung :

 Thứ nhất : Giáo viên phải biết tự bồi dưỡng để có vốn kiến thức chuyên môn và có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử dụng linh hoạt nhưng phương pháp, biện pháp thủ thuật đề ra trong tiết học.

  Thứ hai chú trọng dạy trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, luôn hướng trẻ vào hoạt động một cách tích cực cô chỉ là người gợi mở và hướng dẫn trẻ khi cần thiết

 Thứ ba : Cha mẹ trẻ phải luôn tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh để trẻ có những hiểu biết nhất định về thế giới bên ngoài từ đó hình thành ở trẻ tính tự lập , kiên trì từ đó phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.

Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đó là:

– Không nói dài và nói nhiều.

– Không đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi

– Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ.

 4. Kết luận.

  Việc rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non góp phần quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ con người tương lai của đất nước. Việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi là xây dựng và củng cố nền tảng những gì mà theo trẻ dến suốt đời, làm cơ sở tiền đề cho cuộc sống sau này của trẻ. Giúp cho trẻ phát triển tâm sinh lý lứa tuổi, có sức khỏe tốt, hình thành nhân cách và giá trị đạo đức. Giúp trẻ có ý thức và khả năng thích nghi với cuộc sống, trẻ có thể làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến lối sống lành mạnh.

  Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi còn là nền tảng vững chắc cho trẻ bước vào trường tiểu học và vận dụng trong cuộc sống sau này.

 Cho nên việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi lúc trẻ đang học ở trường mầm non là một vấn đề hết sức quan trọng và càn thiết mà bất cứ ai làm công tác giáo dục đều phải chú ý . Và để rèn trẻ trong các hoạt động, hành động, cử chỉ , thói quen, nề nếp …rèn như thế nào, định hướng ra sao để đạt được hiệu quả thì giáo viên phải có kế hoạch cụ thể theo từng chủ điểm, và bản thân giáo viên phải kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.

 5, Kiến nghị, đề xuất.

a. Đối với tổ nhóm chuyên môn.

– Lên kế hoạch rèn luyện cụ thể cho từng chủ đề, từng tháng, cho các tổ giao lưu học hỏi lẫn nhau.

b. Đối với Lãnh đạo nhà trường.

– Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên dự giờ, tổ chức thao giảng, hội giảng giao lưu chuyên môn…về chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên cùng trao đổi học tập kinh nghiệm.

– Ban giám hiệu cần có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ trong quá trình giáo dục kỹ năng sống và có những biện pháp để giáo viên thực hiện tốt hơn

– Tạo điều kiện cho chị em được dự giờ đồng nghiệp để cùng trao đổi kinh nghiệm giảng dạy.

c.Đối với Phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT.

-Tạo điều kiện bổ sung những tài liệu tham khảo, trang thiết bị và đồ dùng phục vụ cho công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

– Cần tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có nhiều cơ hội học tập.

PHẦN III: Minh chứng về hiệu quả của biện pháp( Phụ lục đính kèm)

PHẦN IV: Cam kết

        Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của mình. Đề tài được thực hiện trên cơ sở tự nghiên cứu của bản thân và kế thừa những tri thức khoa học của các công trình nghiên cứu trước nhưng tuyệt đối không sao chép, trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố.

 

 

 

 

 

Đào viên, ngày   tháng 10  năm 2020

         Giáo viên

 

 

     Bùi Thị Hương

Đánh giá nhận xét của tổ/chuyên môn

………………………………………………………………………………

                   TỔ TRƯỞNG CM

 

 

 

                   Nguyễn Thị Thơm

 

Đánh giá nhận xét của đơn vị

………………………………………………………………………………

 

             HIỆU TRƯỞNG

 

 

 

                         Mai Thị Lợi