Mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học – Tài liệu text
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 190 trang )
đều có thể khai thác và sử dụng ở các khối lớp và bộ mơn khác. Đây có thể làm tài liệu tham khảo tốt cho giáo viên và giáo sinh thực tập bộ mơn hóa học
cũng như các bộ mơn khác. Tóm lại, sinh viên đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề gây
hứng thú trong dạy học hóa học. Đây là những tài liệu tham khảo tốt cho giáo viên, sinh viên.
1.2. Quá trình dạy học 1.2.1. Khái niệm
Trong Lý luận dạy học [1, tr.5], tác giả Nguyễn An có nêu: “Q trình dạy và học là sự tác động qua lại có chủ đích được thay đổi một cách có
trình tự giữa giáo viên và học sinh nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục cộng sản chủ nghĩa và phát triển nhân cách cho học sinh”.
Quá trình dạy và học là một q trình tồn vẹn bao gồm 3 thành phần khơng thể thiếu và có quan hệ mật thiết với nhau đó là: mơn học, việc dạy và
việc học. Ngồi ra, còn có thể định nghĩa theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Quá
trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hành động dạy và hành động của người dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong khoảng không gian và
thời gian nhất định, nhằm thực các hiện nhiệm vụ dạy học” [24, tr.89].
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học
Quá trình dạy học khơng phải là phép cộng máy móc hai q trình giảng dạy và học tập [1, tr.13]. Tính tồn vẹn của q trình ấy nằm ở mục
đích chung của dạy và học ở khả năng không thể tồn tại nếu chỉ có dạy mà khơng có học [1, tr.14].
Dạy + Học = 1
Dạy học là sự điều khiển tối ưu quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm, kiến thức khoa học từ đó hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh. Dạy và học là loại hình hoạt động hai chiều, nó đòi hỏi nhất thiết phải
có tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh. Tác động ấy diễn ra trong những điều kiện nhất định điều kiện vật chất- học tập, điều kiện vệ sinh, điều
kiện tâm lý, đạo đức, thẩm mỹ…. Dạy và học không thể thiếu tác động qua lại biện chứng giữa giáo viên và học sinh. Nếu sự tích cực truyền đạt của giáo
viên mà khơng có sự tích cực hoạt động để tiếp thu kiến thức của học sinh thì quá trình dạy và học thực tế khơng diễn ra. Do đó, bất kì giáo viên nào, dạy
bộ mơn gì đều phải nhận thức được bản chất của việc học tích cực và xác định đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học.
Mối quan hệ đó được khẳng định như sau: – Cách dạy quyết định cách học do đó người giáo viên có vai trò quyết
định. – Mọi hoạt động dạy của giáo viên soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh
giá… phải nhằm phục vụ cho việc học của từng học sinh trong lớp. Các nhà tâm lý học dạy học, qua các cơng trình nghiên cứu của mình
đã khẳng định rằng sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh, diễn ra trong quá trình dạy học ở nhà trường, chịu sự quy định của năng lực người
thầy. Thầy giỏi trò sẽ giỏi, đó là một quy luật. Do đó, những năng lực cần thiết ở người giáo viên:
– Trình độ hiểu biết sâu sắc những tri thức bộ mơn mình dạy và những hiểu biết cần thiết những bộ môn liên quan, cũng như những hiểu biết nhất
định càng sâu càng tốt thực tiễn cuộc sống liên quan đến bộ môn. Năng lực này của giáo viên quy định trực tiếp đến độ sâu, độ rộng khối lượng và tính
thực tiễn của những khái niệm và tri thức khoa học được hình thành ở học
sinh. Người giáo viên phải không ngừng nâng cao trong học hỏi lý thuyết, tiếp cận với những tri thức khoa học hiện đại, nghiên cứu khoa học và tìm
hiểu thực tiễn, khơng bao giờ bằng lòng với vốn tri thức, hiểu biết của mình. – Trình độ về phương pháp giảng dạy bộ môn, phương pháp giảng dạy
của thầy quy định phương pháp học tập của trò, quy định cách nhìn và suy nghĩ của trò. Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy có nhiều trường hợp giáo
viên nắm vững tri thức bộ môn nhưng do phương pháp giảng dạy khơng thích hợp, năng lực truyền tải nguyên xi những tri thức trong tài liệu giáo khoa,
buộc học sinh phải tiếp thu một cách thụ động, khơng cần phải phân tích thắc mắc, động não mà chủ yếu ra sức ghi nhớ, học thuộc lòng rồi sau đó lập lại
máy móc những gì đã nhớ. Học trong điều kiện giảng dạy như vậy chỉ hình thành ở học sinh năng lực nhận thức máy móc, nơng cạn, khơng thể hình
thành năng lực tư duy độc lập sáng tạo, tự mình xây dựng tri thức cho mình. Tóm lại, trình độ hiểu biết, đặc biệt là hiểu biết tri thức bộ mơn và trình
độ phương pháp dạy học bộ môn của giáo viên quy định trình độ hiểu biết và năng lực của học sinh.
1.2.3. Vai trò của giáo viên trong q trình dạy học
Quá trình dạy học khơng phải là phép cộng máy móc hai q trình giảng dạy và học tập [1, tr.13]. Tính tồn vẹn của q trình ấy nằm ở mụcđích chung của dạy và học ở khả năng không thể tồn tại nếu chỉ có dạy mà khơng có học [1, tr.14].Dạy + Học = 1Dạy học là sự điều khiển tối ưu quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm, kiến thức khoa học từ đó hình thành và phát triển nhân cách cho họcsinh. Dạy và học là loại hình hoạt động hai chiều, nó đòi hỏi nhất thiết phảicó tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh. Tác động ấy diễn ra trong những điều kiện nhất định điều kiện vật chất- học tập, điều kiện vệ sinh, điềukiện tâm lý, đạo đức, thẩm mỹ…. Dạy và học không thể thiếu tác động qua lại biện chứng giữa giáo viên và học sinh. Nếu sự tích cực truyền đạt của giáoviên mà khơng có sự tích cực hoạt động để tiếp thu kiến thức của học sinh thì quá trình dạy và học thực tế khơng diễn ra. Do đó, bất kì giáo viên nào, dạybộ mơn gì đều phải nhận thức được bản chất của việc học tích cực và xác định đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học.Mối quan hệ đó được khẳng định như sau: – Cách dạy quyết định cách học do đó người giáo viên có vai trò quyếtđịnh. – Mọi hoạt động dạy của giáo viên soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánhgiá… phải nhằm phục vụ cho việc học của từng học sinh trong lớp. Các nhà tâm lý học dạy học, qua các cơng trình nghiên cứu của mìnhđã khẳng định rằng sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh, diễn ra trong quá trình dạy học ở nhà trường, chịu sự quy định của năng lực ngườithầy. Thầy giỏi trò sẽ giỏi, đó là một quy luật. Do đó, những năng lực cần thiết ở người giáo viên:- Trình độ hiểu biết sâu sắc những tri thức bộ mơn mình dạy và những hiểu biết cần thiết những bộ môn liên quan, cũng như những hiểu biết nhấtđịnh càng sâu càng tốt thực tiễn cuộc sống liên quan đến bộ môn. Năng lực này của giáo viên quy định trực tiếp đến độ sâu, độ rộng khối lượng và tínhthực tiễn của những khái niệm và tri thức khoa học được hình thành ở họcsinh. Người giáo viên phải không ngừng nâng cao trong học hỏi lý thuyết, tiếp cận với những tri thức khoa học hiện đại, nghiên cứu khoa học và tìmhiểu thực tiễn, khơng bao giờ bằng lòng với vốn tri thức, hiểu biết của mình. – Trình độ về phương pháp giảng dạy bộ môn, phương pháp giảng dạycủa thầy quy định phương pháp học tập của trò, quy định cách nhìn và suy nghĩ của trò. Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy có nhiều trường hợp giáoviên nắm vững tri thức bộ môn nhưng do phương pháp giảng dạy khơng thích hợp, năng lực truyền tải nguyên xi những tri thức trong tài liệu giáo khoa,buộc học sinh phải tiếp thu một cách thụ động, khơng cần phải phân tích thắc mắc, động não mà chủ yếu ra sức ghi nhớ, học thuộc lòng rồi sau đó lập lạimáy móc những gì đã nhớ. Học trong điều kiện giảng dạy như vậy chỉ hình thành ở học sinh năng lực nhận thức máy móc, nơng cạn, khơng thể hìnhthành năng lực tư duy độc lập sáng tạo, tự mình xây dựng tri thức cho mình. Tóm lại, trình độ hiểu biết, đặc biệt là hiểu biết tri thức bộ mơn và trìnhđộ phương pháp dạy học bộ môn của giáo viên quy định trình độ hiểu biết và năng lực của học sinh.