MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢGIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong mọi thời đại, giáo dục luôn đóng vai trò quan trọng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” với mục đích đào tạo ra những con người có đủ đức, đủ tài góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh để sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện được mục đích đó đòi hỏi nhà trường, gia đình và xã hội phải tạo điều kiện tốt nhất cho các em học sinh được học tập và hoạt động sáng tạo nhằm chiếm lĩnh tri thức. Trong đó việc phối hợp giảng dạy tốt các môn Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội và rèn kỹ năng sống có ý nghĩa lớn, không chỉ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mà còn góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động chủ động, vừa có năng lực trí tuệ, vừa có kỹ năng, năng lực hành động thực tế vừa có phẩm chất đạo đức tốt.
Trong thực tế hiện nay việc giáo dục kỹ năng sống của các em ở trường THCS còn thấp và nhiều hạn chế. Nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kỹ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ, học sinh được gia đình định hướng sớm nên chỉ tập trung học một số môn “chính” (đó là những môn thi vào cấp III và đại học) .
Kỹ năng sống là điều hết sức quan trọng với tất cả mọi người, chứ không riêng gì học sinh. Tuy nhiên, học sinh là đối tượng thường được nhắm đến đầu tiên trong việc giáo dục kỹ năng sống, bởi trên thực tế cho thấy, hiện nay kỹ năng sống của các em học sinh đang là vấn đề rất đáng quan tâm vì trong những năm gần đây, dường như có sự bùng phát hiện tượng học sinh nghiện game, học sinh nam để tóc kiểu, nhuộm tóc, đi học trễ… mặc dù bị nhắc nhở nhiều nhưng vẫn tiếp tục xảy ra. Hơn thế nữa hiện tượng nói trống không, thậm chí chỉ chào thầy cô dạy mình hoặc không chào cũng đang xảy ra ngày một nhiều hoặc nhiều trẻ rất thiếu kỹ năng làm việc nhà, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự bảo vệ bản thân…; hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lý những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là điều hết sức cần thiết cho tương lai
các em và cần được bắt đầu rèn luyện từ sớm, rèn luyện thường xuyên vì từ những hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Do phần lớn thời gian học sinh ở trường học, nơi hàng ngày diễn ra cuộc sống thực của các em, thế nên bắt buộc các em phải được giáo dục và rèn luyện từ trong nhà trường sau đó mới đến gia đình. Nhưng rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh và đặc biệt là học sinh THCS như thế nào cho hiệu quả, thu hút được các em và các bậc phụ huynh luôn là vấn đề trăn trở của các nhà trường, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã hội hiện nay. Với mong muốn, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS” để nghiên cứu và cùng chia sẻ.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Đối với giáo viên
– Sáng tạo về phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, phát triển tư duy, tính tích cực, tự giác, tự học tập của học sinh.
– Chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tế cuộc sống.
– Thiết kế tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp với hình thức đa dạng, phong phú, có sự hấp dẫn, phù hợp với đặc trưng bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và
địa phương.
2. Đối với học sinh
– Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập, tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.
– Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy (cô), cho bạn; biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
– Học sinh biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày và có cuộc sống bình thường trong một xã hội hiện đại
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Áp dụng trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục để giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh THCS.
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT
Đối tượng khảo sát của đề tài là khả năng vận dụng kỹ năng sống của học sinh trường THCS nơi tôi đang công tác hiện nay. Thời điểm khảo sát (trước khi áp dụng đề tài) về khả năng vận dụng một số KNS của học sinh THCS vào thực tế đã thu được kết quả như sau:
Năm học 2014- 2015
Khối
Kết quả khảo sát về khả năng vận dụng các kỹ năng sống của học sinh bậc THCS
KN tự
phục vụ
KN
giao tiếp
KN hợp tác
KN tìm kiếm sự
hỗ trợ
KN bảo vệ bản thân
6
42,3 %
48 %
41,3 %
50,6 %
39,5 %
7
60,6 %
59 %
49,6 %
56,5 %
46,5 %
8
71,0 %
76,5 %
66,9 %
64,4 %
57,6 %
9
83,5 %
88,3 %
80,7 %
72,9 %
65,9 %
Trung bình toàn trường
64,4 %
68,0 %
59,6 %
61,1 %
52,4 %
V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về việc tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh THCS.
2. Kế hoạch nghiên cứu
Đề tài này được tôi nghiên cứu, tiến hành thực nghiệm và hoàn thành từ tháng 9/2014 đến tháng 4/ 2017.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
– Tìm hiểu thực tế.
– Nghiên cứu thực nghiệm.
– Tổng hợp tư liệu, tài liệu.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Trong Luật giáo dục Việt Nam năm 2005, điều 2 chương 3 đã quy định như sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Hơn thế, giáo dục là quá trình bao gồm giáo dục và giáo dưỡng. Trong giáo dục thì có giáo dưỡng, trong giáo dưỡng thì có giáo dục. Vậy làm thế nào để hai quá trình này tạo thành một mục tiêu chung? Làm thế nào để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm của toàn xã hội, của những người làm công tác giáo dục.
Vấn đề giáo dục học sinh trở thành những con người phát triển toàn diện là nhiệm vụ hàng đầu biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực. Theo Thông tư số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT V/v hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở GDMN, GDPT và GDTX đã quy định về nội dung giáo dụckỹ năng sống đối với học sinh nhằm mục đích:
– Đẩy mạnh hoạt động giáo dục KNS cho HS theo định hướng phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của HS gắn với định hướng nghề nghiệp;
– Giúp giáo viên chủ động, tích cực trong việc tự bồi dưỡng KNS cho bản thân và giáo dục KNS cho HS.
– Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, tạo môi trường thuận lợi để giáo dục KNS cho HS.
Thông tư cũng nhấn mạnh nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là: Giáo dục cho người học những kỹ năng cơ bản, cần thiết, hướng tới hình thành những thói quen tốt giúp người học thành công, đảm bảo vừa phù hợp với thực tiễn và thuần phong mỹ tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước. Đối với đối tượng là học sinh THCS cần tiếp tục rèn luyện những kỹ năng đã được học ở tiểu học, tập trung giáo dục những KNS cốt lõi, có ý nghĩa thiết thực cho người học như: kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện và sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và hợp tác, kỹ năng tự nhận thức và cảm thông, kỹ năng quản lý cảm xúc và đương đầu với áp lực, kỹ năng tự học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Cuộc sống hiện đại về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, môi trường khí hậu… ở trong nước và trên thế giới đang vận động hết sức khẩn trương và chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường. Để sống, hội nhập và góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, con người nói chung và học sinh nói riêng không thể không quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng sống nhằm thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh.
Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: Một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc sống mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái. Môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kĩ năng sống.
Mục tiêu của giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo dục Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Trung học phổ thông, trung cấp học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Giáo dục bậc THCS có vai trò duy trì và phát tiển những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nội dung giáo dục trong các nhà trường THCS trong thời gian qua còn xem trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.Thế nên việc giáo dục kỹ năng sống chỉ được mang tính chất lồng ghép vào các môn học. Ở lứa tuổi của các em nếu chỉ dạy kỹ năng sống thông qua các môn học, qua lý thuyết suông thì chưa đủ. Hãy gắn các em vào những hoạt động bổ ích, những việc làm phù hợp với những hình thức linh hoạt, sáng tạo để thu hút trẻ. Thế nên việc phối hợp các biện pháp giữa giáo dục chính khóa và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp sẽ là điều kiện là cơ hội tốt cho trẻ tự thể hiện bản thân, được trải nghiệm cuộc sống bằng những việc làm của mình.
III. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thuận lợi
– Bộ Giáo dục – Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” với những kế hoạch, nội dung nhất quán từ trung ương đến địa phương. Trong đó, nội dung rèn kỹ năng sống cho HS ngày càng được chú trọng hơn và tập trung vào một số hoạt động sau:
+ Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hoá. Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và cộng đồng cùng tham gia chăm sóc giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh. Thực hiện Chỉ thị 1537/CT-BGDĐT ngày 05/5/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường và nâng cao hiệu quả một số hoạt động giáo dục cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục, đào tạo; Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/02/2014 ban hành quy định về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa; Thông tư số 07/2014/TT-BGDĐT ngày 14/3/2014 quy định về hoạt động chữ thập đỏ
trong trường học. + Đẩy mạnh các giải pháp nhằm xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp; đủ nhà vệ sinh sạch sẽ cho học sinh và giáo viên.
+ Tổ chức cho học sinh hát Quốc ca tại Lễ chào Cờ Tổ quốc; tăng cường giáo dục thể chất, rèn luyện sức khỏe cho học sinh thông qua tập thể dục buổi sáng, tập thể dục giữa giờ.
+ Đưa các nội dung giáo dục văn hoá truyền thống, giáo dục thông qua di sản vào nhà trường. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, vui chơi, giải trí tích cực, các hoạt động văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian, dân ca, ngoại khoá phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và địa phương. Hướng dẫn học sinh tự quản, chủ động tự tổ chức, điều khiển các hoạt động tập thể và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
+ Tổ chức lễ khai giảng năm học mới (với cả phần lễ và phần hội) gọn nhẹ, vui tươi, tạo không khí phấn khởi cho học sinh bước vào năm học mới. Trong đó, dành thời gian tổ chức lễ đón học sinh lớp 1, tạo ấn tượng và cảm xúc cho học sinh.
+ Tổ chức 1 – 2 “Tuần làm quen” đầu năm học mới đối với lớp 6 nhằm giúp học sinh thích nghi với môi trường học tập mới ở trường THCS.
+ Tổ chức lễ ra trường trang trọng, tạo dấu ấn sâu sắc cho học sinh hoàn thành chương trình THCS trước khi ra trường (tuỳ điều kiện cụ thể, có thể tổ chức các sinh hoạt tập thể, giao lưu, văn nghệ,…).
– Bên cạnh các phong trào thi đua, các công văn hướng dẫn chỉ, chỉ đạo thực hiện công tác giáo dục KNS cho học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức một số hoạt động hướng tới việc rèn luyện năng lực cho học sinh như: Tổ chức Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA với cách đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống; tổ chức cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn; triển khai phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”, là phương pháp dạy học khoa học được tiến hành dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
– Phòng Giáo dục – Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
– Trong thực tế những năm học gần đây, cơ sở vật chất của nhiều nhà trường đã được nâng cấp hoặc xây dựng mới, đồ dùng và các phương tiện dạy học ngày càng đầy đủ và hiện đại, trình độ chuyên môn của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn, giáo viên thành thạo về kỹ năng công nghệ thông tin…Đây là những điều kiện vô cùng thuận lợi giúp việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động giáo dục được hiệu quả hơn.
2. Khó khăn
* Về phía học sinh
Do đặc điểm tâm sinh lí học sinh, nhiều em tính cách nhút nhát, ít va chạm với môi trường xung quanh, sức khỏe yếu… nên khó khăn cho việc tiếp thu kiến thức và các kỹ năng.
* Về phía phụ huynh
– Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình được điểm số là bao nhiêu, đạt được những thành tích gì, học các môn “chính” có giỏi không… hoặc nếu con có điểm số thấp, học các môn“chính” chưa tốt thì lo lắng một cách thái quá. Phụ huynh chiều chuộng, cung phụng con cái khiến các em không có kỹ năng tự phục vụ.
– Nhiều bậc phụ huynh do bận làm ăn, hầu như chỉ chú ý con em mình có ăn ngon, mặc đẹp là được, không có chút thời gian quan tâm đến tâm tư tình cảm, không quan tâm đến học tập của con em mình. Phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho các em, trách nhiệm của mình trong việc học tập của con em còn phó thác cho giáo viên.
*Về phía giáo viên
– Trong thực tế, khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo viên đều phải xây dựng 3 mục tiêu: Cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức sâu sắc yêu cầu này. Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung kiến thức trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng xử với xã hội, ứng phó và hòa nhập với cuộc sống.
– Nhà trường là môi trường giáo dục quan trọng nhất trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, nhưng nhiều cơ sở chưa chú tâm đầu tư mới chỉ hoàn thành theo mục tiêu môn học, chưa nghiên cứu phương pháp dạy nhằm mục đích giáo dục cao nhất. Giáo viên chưa xác định được kỹ năng cần rèn qua từng bài học. Chưa chú ý kiểm tra kỹ năng hành vi đạo đức đã học của học sinh.
– Việc rèn kỹ năng sống cho học sinh chưa thường xuyên liên tục nên các hành vi đạo đức chưa trở thành thói quen, các em chóng quên. hành vi đó
chưa có giá trị thực tế cao.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Kỹ năng sống là gì?
1.1 Khái niệm kỹ năng sống
Các tổ chức trên thế giới đã đưa ra rất nhiều quan niệm về kĩ năng sống:
* Theo UNESCO:
Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực
trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
*Theo Tổ chức y tế thế giới ( WHO):
Kỹ năng sống là các khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày.
*Theo UNICEF:
Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và phát triển kỹ năng. Cách tiếp cận này nhấn mạnh việc luyện tập thường xuyên, lặp đi lặp lại để củng cố.
*Kết luận:
– Kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Một kỹ năng có thể có những tên gọi khác nhau: Kỹ năng hợp tác còn gọi là kỹ năng làm việc nhóm; Kỹ năng kiểm soát cảm xúc còn gọi là kỹ năng xử lí cảm xúc, kỹ năng làm chủ cảm xúc, kỹ năng quản lí cảm xúc; Kỹ năng thương lượng còn gọi là kỹ năng đàm phán, kỹ năng thương thuyết.
– Các kỹ năng thường không tách rời mà có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Kỹ năng không phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình học tâp, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kỹ năng sống diễn ra trong và ngoài hệ thống giáo dục. Kỹ năng sống vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính xã hội. Kỹ năng sống mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân. Kỹ năng sống mang tính xã hội vì kỹ năng sống phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa của giai đình, cộng đồng, dân tộc.
– Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS hiện nay là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
1.2 Phân loại kỹ năng sống
Kỹ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
*Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy v.v…
*Kỹ năng nâng cao: Là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi v.v…
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS là trang bị cho các em những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày; Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Theo đó, chúng ta cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng sống sau đây:
+ Nhóm kỹ năng giao tiếp – hòa nhập cuộc sống.
+ Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí.
2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
2.1. Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỹ năng sống
– Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp học sinh nhanh chóng hoà nhập và khẳng định vị trí của mình trong tập thể, mà xa hơn là một cộng đồng, xã hội. Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em. Khi xảy ra vấn đề nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, các em sẽ không đủ kiến thức để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp học sinh sớm có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội.
– Hiện nay, do áp lực công việc của giáo viên quá nhiều do: Hồ sơ giáo án, dự giờ kiểm tra, các phong trào thi đua… chiếm nhiều thời gian công việc quá lớn. Nhưng chúng ta đã không vì áp lực công việc mà thiếu đi quan tâm giáo dục chuẩn mực, vì điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các em…Vì vậy, bên cạnh việc dạy kiến thức còn cần phải quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho các em.
2.2. Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy cho học sinh THCS
Học sinh THCS ( từ 12-16 tuổi) là lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh mẽ về thể chất, sức khỏe và tâm sinh lý. Tuổi dậy thì các em dễ thay đổi tình cảm, hành vi, chóng vui chóng buồn. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho các em trong giai đoạn này vô cùng quan trọng và cấp thiết .Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để trang bị cho các em những kỹ năng cần thiết nhất trong giai đoạn chuyến tiếp này.
– Đối với học sinh lớp 6, việc chuyển tiếp từ trường tiểu học lên THCS được coi là bước ngoặt trong cuộc đời các em. Đây là giai đoạn khó khăn nhất với các em do thay đổi môi trường cũng như yêu cầu học tập. Vì vậy người giáo viên cần phải quan tâm, động viên và thấu hiểu các em; biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của các em, cần gương mẫu, khéo léo trong mọi vấn đề. Thầy cô cần nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho các em và phải xác định được những kỹ năng sống cần thiết để giáo dục trẻ trong giai đoạn này và những năm phát triển tiếp theo.
2.3. Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy cho học sinh THCS
2.3.1. Kỹ năng tự nhận thức bản thân
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình,
như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh
giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác.
2.3.2. Kỹ năng xác định giá trị
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó…Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật, đạo đức, kinh tế,…
Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kỹ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kỹ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người. Kỹ năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác.
2.3.3. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kỹ năng xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: Xử lý cảm xúc , kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.
Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Kỹ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kỹ năng này.
2.3.4. Kỹ năng ứng phó với căng thẳng
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng.
Chúng ta cũng có thể hạn chế những tình huống căng thẳng bằng cách sống và làm việc điều dộ, có kế hoạch, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, sống vui vẻ, chan hòa, tránh gây mâu thuẫn không cần thiết với mọi người xunh quanh, không đặt ra cho mình những mục tiêu quá cao so với điều kiện và khả năng của bản thân,…
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng có được nhờ sự kết hợp của các kỹ năng sống khác như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng xử lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ và kỹ năng giải quyết vấn đề.
2.3.5. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
bao gồm các yếu tố sau:
– Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.
– Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy.
– Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
– Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
Khi tìm đến các địa chỉ cần hỗ trợ, chúng ta cần:
– Cư xử đúng mực và tự tin.
– Cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn.
– Giữ bình tĩnh khi gặp sự cố đối xử thiếu thiện chí. Nếu vẫn cần sự hỗ trợ của người thiếu thiện chí, cố gắng tỏ ra bình thường, kiên nhẫn nhưng không sợ hãi.
– Nếu bị cự tuyệt, đừng nản chí, hãy kiên trì tìm kiếm sự hỗ trợ từ các địa chỉ khác, người khác.Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ giúp chúng ta có thể nhận được những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng ta có cái nhìn mới và hướng đi mới.
Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng. Đồng thời để phát huy hiệu quả của kỹ năng này, cần kỹ năng lắng nghe, khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư vấn, kỹ năng ra quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu sau khi được tư vấn.
2.3.6. Kỹ năng thể hiện sự tự tin
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.
Kỹ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống.
Kỹ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm.
2.3.7. Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kỹ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kỹ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.
Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác như bày tỏ sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiếm soát cảm xúc. Người có kỹ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính đáng.
2.3.8. Kỹ năng lắng nghe tích cực
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng giao tiếp. Người có kỹ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác (bằng các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong quá trình giao tiếp.
Người có kỹ năng lắng nghe tích cực thường được nhìn nhận là biết tôn trọng và quan tâm đến ý kiến của người khác, nhờ đó làm cho việc giao tiếp, thương lượng và hợp tác của họ hiệu quả hơn. Lắng nghe tích cực cũng góp
phần giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và xây dựng.
Kỹ năng lắng nghe tích cực có quan hệ mật thiết với các kĩ năng giao tiếp, thương lượng, hợp tác, kiềm chế cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn.
2.3.9. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ
Kỹ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử với người khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với những người cần sự giúp đỡ.
Kỹ năng thể hiện sự cảm thông được dựa trên kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị, đồng thời là yếu tố cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm xúc.
2.3.10. Kỹ năng thương lượng
Thương lượng là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích, đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách suy
nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.
Kỹ năng thương lượng bao gồm nhiều yếu tố của kỹ năng giao tiếp như lắng nghe, bày tỏ suy nghĩ và một phần quan trọng của giải quyết vấn đề và giải quyết mâu thuẫn. Một người có kỹ năng thương lượng tốt sẽ giúp giải quyết vấn đề hiệu quả, giả quyết mâu thuẫn một cách xây dựng và có lợi cho tất cả các bên.
Kỹ năng thương lượng có liên quan đến sự tự tin, tính kiên định, sự cảm
thông, tư duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác và khả năng thỏa hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân.
2.3.11. Kỹ năng hợp tác
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Kỹ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiêu quả với những thành viên khác trong nhóm. Biểu hiện của người có kỹ năng hợp tác:
– Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm; tôn trọng những quyết định chung, những điều đã cam kết.
– Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các thành viên khác trong nhóm.
– Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm.
– Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong quá trình hoạt động.
– Biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng mắc để hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
– Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại của nhóm, về những sản phẩm do nhóm tạo ra.
2.3.12. Kỹ năng tư duy phê phán
Kỹ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng…xảy ra. Để phân tích một cách có phê phán, con người cần:
– Thu thập thông tin về vấn đề, sự vật, hiện tượng…đó từ nhiều nguồn khác nhau.
– Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều.
– Xác định bản chất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng…là gì?
– Nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng,….đó, xem xét một cách thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống.
Kỹ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được những quyết định, những tình huống phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp…thì kỹ năng tư duy phê phán càng trở lên quan trọng đối với mỗi cá nhân.
Kỹ năng tư duy phê phán phụ thuộc vào hệ thốn giá trị cá nhân. Một người có được kĩ năng tư duy phê phán tốt khi biết phối hợp nhịp nhàng với kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị.
2.3.13. Kỹ năng tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.
Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn các người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.
Tư duy sáng tạo là một kỹ năng sống quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp.
Khi một người biết kết hợp tốt giữa kĩ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất.
2.3.14. Kỹ năng kiên định
Kỹ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người khác.
Kiên định khác với hiếu thắng, nghĩa là luôn chỉ nghĩ đến quyền và nhu cầu của bản thân, bằng mọi cách để thỏa mãn nhu cầu của mình, không quan tâm đến quyền và nhu cầu của người khác.
Thể hiện tính kiên định trong mọi hoàn cảnh là cần thiết song cần có cách thức khác nhau để thể hiện sự kiên định đối với từng đối tượng khác nhau.
Khi cần kiên định trước một tình huống/ vấn đề, chúng ta cần:
– Nhận thức được cảm xúc của bản thân.
– Phân tích, phê phán hành vi của đối tượng.
– Khẳng định ý muốn của bản thân bằng cách thể hiện thái độ, lời nói và hành động mang tính tích cực, mềm dẻo, linh hoạt và tự tin.
Kỹ năng kiên định sẽ giúp chúng ta tự bảo vệ được chính kiến, quan điểm, thái độ và những quyết định của bản thân, đứng vững trước những áp lực tiêu cực của những người xung quanh. Ngược lại, nếu không có kỹ năng kiên định, con người sẽ bị mất tự chủ, bị xúc phạm, mất lòng tin, luôn bị người khác điều khiển hoặc luôn cảm thấy tức giận và thất vọng. Kỹ năng kiên định giúp cá nhân giải quyết vấn đề và thương lượng có hiệu quả.
Để có kỹ năng kiên định, con người cần xác định được các giá trị của bản thân, đồng thời phải kết hợp tốt với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp.
2.3.15. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm
Đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
Khi các thành viên trong nhóm có kỹ năng đảm nhận trách nhiệm sẽ tạo được một không khí hợp tác tích cực và xây dựng trong nhóm, giúp giải quyết vấn đề, đạt được mục tiêu chung của cả nhóm, đồng thời tạo sự thỏa mãn và thăng tiến cho mỗi thành viên.
Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm có liên quan đến kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề.
2.3.16. Kỹ năng quản lý thời gian
Kỹ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định.
Kỹ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp con người tránh được căng
thẳng do áp lực công việc.
Quản lý thời gian là một trong những kỹ năng quan trọng trong nhóm kỹ năng làm chủ bản thân. Quản lý thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân và của nhóm.
2.3.17. Kỹ năng bảo vệ bản thân
Kỹ năng bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự việc xung quanh mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật đó. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới trong phạm vi an toàn.
Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người nhiều tiện ích, sự thoải mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt là đối với độ tuổi học sinh của các em. Điều này đòi hỏi em đều phải có những kỹ năng để xử lý cũng như bảo vệ chính bản thân mình.
2.4. Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy học sinh kỹ năng sống
– Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh , cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
– Cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
– Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của các em.
– Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
2.5. Lựa chọn hình thức phù hợp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS được thực hiện linh hoạt thông qua nhiều hình thức khác nhau. Căn cứ vào từng nội dung bài học, những kỹ năng cần phát triển cho học sinh, đối tượng học sinh, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, địa phương… giáo viên có thể cân nhắc và lựa chọn một hình thức phù hợp hoặc phối hợp nhiều hình thức khác nhau để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả cao nhất. Các hình thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS rất đa dạng như: Tích hợp vào các môn học, giáo dục qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, phối hợp với cha mẹ học sinh…
2.5.1. Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học
– Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả giáo viên có thể vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Ngữ văn, Giáo dục công dân, Địa lí, Giáo dục thể chất, Công nghệ, Sinh học …. để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
+ Ví dụ 1:
Môn Ngữ văn ở các khối lớp của bậc THCS đều có phần Tiếng Việt. Thông qua nội dung học tập sẽ chuẩn bị cho việc hình thành một số kỹ năng như: Viết thư; Giới thiệu địa phương; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,… được lồng ghép cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Khi học các bài học đó, giáo viên chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Vì vậy người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kỹ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kỹ năng sống cần thiết.
+ Ví dụ 2:
Ở môn Giáo dục công dân, để các chuẩn mực đạo đức trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: Kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn…
+ Ví dụ 3:
Trong bộ môn Sinh học bậc THCS, nhất là Sinh học lớp 8, thông qua các bài học, giáo viên có thể giáo dục cho học sinh một số kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc sức khỏe như:
– Bài vệ sinh mắt: Tại sao không đọc sách nơi thiếu ánh sáng hay đang đi tàu xe? Nguyên nhân dẫn đến cận thị? Để không bị cận thị em cần phải làm gì?…Qua những câu hỏi này giáo dục cho học sinh ngồi học đúng tư thế, đảm bảo khoảng cách giữa mắt và sách, khi xem ti vi không ngồi gần; không đam mê trò chơi điện tử, phải đọc sách nơi có ánh sáng; … Nêu các cách phòng tránh bệnh đau mắt hột mà em biết ? Từ đó giáo dục cho các em không dụi tay bẩn vào mắt, không dùng chung khăn mặt, không tắm sông, thường xuyên rửa mặt bằng nước muối pha loãng, …
– Giáo dục kỹ năng về sức khỏe sinh sản:
+ Bài tuyến sinh dục: Nêu những dấu hiệu xuất hiện ở tuổi dậy thì của nam, nữ ? Trong những biến đổi đó, biến đổi nào là quan trọng cần lưu ý ?
+ Bài cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai: – Nêu rõ những ảnh hưởng của có thai sớm ngoài ý muốn của tuổi vị thành niên? Phải làm gì để điều đó không xảy ra? Những hậu quả có thể xảy ra khi phải xử lý đối với việc mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên là gì ? Làm thế nào để tránh được ? Thông qua các câu hỏi trên giáo dục các em học sinh biết mình cần phải làm gì khi còn là học sinh. Sống vô tư, hồn nhiên, tập trung vào học tập, không đua đòi, bồng bột, nhất thời hồ đồ để lại hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Để giáo dục kỹ năng sống có hiệu qủa, giáo viên có thể vận dụng khá nhiều trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. Thông qua đó các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kỹ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
2.5.2. Giáo dục kỹ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, giáo viên cần cho học
sinh làm quen với nội quy của trường, lớp và phát động các phong trào: Qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn tuổi,… và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Giáo viên học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để giáo dục các em.
Để rèn kỹ năng sống có hiệu quả còn vận dụng thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp như: Tiết chào cờ đầu tuần, sinh hoạt tập thể; hoạt động giáo dục theo chủ điểm, tham quan, du lịch…Qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp, giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của các em. Vì đối với học sinh THCS trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỹ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Không những thế,khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi bản thân cùng các em tham gia những trò chơi dân gian, trò chơi giúp các em phát triển trí tuệ.
Bên cạnh đó, để rèn kỹ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh – sạch – đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác động viên, khen thưởng học sinh qua biện pháp sau:
2.5.3. Động viên, khen thưởng
Việc động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời các em sẽ tạo cho các em có một động cơ tốt.Vì vậy, các em thi đua nhau “ nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được bông hoa điểm mười .Mỗi học kì, tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong
cuộc sống.
2.6.Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh về sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho con em và một số kỹ năng cơ bản cần giáo dục để phụ huynh cùng phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục để đạt hiệu quả cao nhất
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với các em học sinh và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi.Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận sau này. Giáo viên có thể tuyên truyền và hướng dẫn phụ huynh phối hợp cùng nhà trường dạy con em mình một số kỹ năng cần thiết như:
– Kỹ năng an toàn khi tự chơi
Đây được coi là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các bậc phụ huynh trong thời gian gần đây. Hiện nay do tính chất của công việc cũng như điều kiện của mỗi gia đình, việc tự chơi của các con rất phổ biến. Trong quá trình chơi, các con có thể gặp phải những mối nguy hiểm từ những đồ vật trong gia đình như phích nước, ổ điện, bếp ga, đồ dùng nhà bếp, cầu thang và những đồ vật nhỏ. Các con cần hiểu được đâu là đồ chơi, đâu là đồ dùng trong gia đình; đâu là đồ vật an toàn và đồ vật không an toàn,…
– Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể
Ở Việt Nam, vấn đề cho con tìm hiểu về vấn đề này chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề khá nhức nhối trong xã hội hiện nay. Để đảm bảo cho con có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân thể cũng như cách phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể, cha mẹ cần trang bị cho con những kiến thức cần thiết. Cha mẹ hãy giúp con hiểu được thế nào là hành động xâm phạm thân thể, nếu bị xâm hại cơ thể các con nên ứng xử ra sao?…
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua học tập ở trương, sinh hoạt ở nhà là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy.
Giáo dục kỹ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kỹ năng cho các em để các em có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau này.
2.7.Tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kỹ năng sống
Nhằm tạo môi trường thuận lợi và phù hợp giúp việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh tốt hơn, giáo viên có thể tham mưu với nhà trường để trang bị thêm các đầu sách cho thư viện thư viện, tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa thiết thực như: Thi các trò chơi dân gian, thi kể chuyện, thi thể dục thể thao, thi Giai điệu tuổi hồng, tổ chức thăm quan du lịch… để tạo nhiều cơ hội cho học sinh được trải nghiệm và thể hiện bản thân.
V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
+ 100% số học sinh được điều tra đều được giáo viên giáo dục những kỹ năng sống cơ bản như: Kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ bản thân, kỹ năng hợp tác , Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ…
+ 100 % số học sinh được giáo dục, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường.
+ Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
Qua điều tra về khả năng vận dụng một số kỹ năng sống vào thực tế cuộc sống của học sinh tại trường THCS nơi tôi đang công tác đã thu được kết quả khá khả quan, cụ thể sau:
Năm học 2016- 2017
Khối
Kết quả khảo sát về khả năng vận dụng các kỹ năng sống của học sinh bậc THCS vào thực tế sau khi áp dụng SKKN
KN tự
phục vụ
KN
giao tiếp
KN
hợp tác
KN tìm kiếm sự
hỗ trợ
KN bảo vệ bản thân
6
70,9 %
67,2 %
59,3 %
67,8 %
72,2 %
7
79,4 %
80,5 %
69,0 %
75,2 %
86,4 %
8
92,6 %
88,6 %
86,7 %
86,0 %
97,0 %
9
97,3 %
97,3 %
93,8 %
96,1 %
100 %
Trung bình toàn trường
85,1 %
83,4 %
77,2 %
81,3 %
88,9 %
Kết quả điều tra khả năng vận dụng
một số kỹ năng của học sinh THCS vào thực tế
Năm học 2014- 2015 và 2016- 2017
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Một số điều giáo viên và phụ huynh cần làm để giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS đạt hiệu quả cao:
– Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng và đảm bảo an toàn cho các em.
– Việc học của các em nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì các em sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.
– Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian và cũng khộng cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho các em thấy cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương lai của các em.
2. Một số diều giáo viên và phụ huynh cần tránh khi giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS :
– Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ.
– Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
– Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi.
– Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở các em.
– Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh.
– Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của
não bộ các em.
II. KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta khi yếu tố con người được coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Thực tế hiện nay ngành giáo dục đào tạo đã được nhà nước quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu thi việc dạy chữ nói chung và việc giáo dục kỹ năng sống nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói “khoa học mà không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh hồn” mà hành vi đạo đức đó chính là kỹ năng sống của học sinh. Kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Chính vì vậy việc thực hiện giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh là cần thiết biết bao. Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay chậm, hình thành những kỹ năng sống diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong các chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ.
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS” vào thực tiễn tại trường THCS nơi tôi công tác đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ: Giáo viên chú trọng hơn đến nội dung giáo dục KNS cho HS; nội dung giáo dục KNS cho HS không còn chung chung mà đã được cụ thể hóa bằng những nhóm KNS cơ bản phù hợp với lứa tuổi; 100% đối tượng HS khảo sát đều được giáo viên dạy những KNS cơ bản;… Khả năng vận dụng các KNS vào thực tế của HS cao hơn. Cụ thể:
Thời gian khảo sát
Kết quả khảo sát về khả năng vận dụng các kỹ năng sống của học sinh bậc THCS
KN tự
phục vụ
KN
giao tiếp
KN
hợp tác
KN tìm kiếm sự
hỗ trợ
KN bảo vệ bản thân
Trước khi áp dụng SKKN
64,4 %
68,0 %
59,6 %
61,1 %
52,4 %
Sau khi áp dụng SKKN
85,1 %
83,4 %
77,2 %
81,3 %
88,9 %
Mức độ tăng
20,7 %
15,4 %
18,6 %
20,2 %
36,5 %
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kỹ năng sống, đó là: Học để biết, Học để làm việc, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Để đạt được mục tiêu đó, trong thời gian tới, bên cạnh việc áp dụng nội dung đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS” vào giảng dạy tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu tìm thêm nhiều biện pháp mới, phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể trong nhà trường, cha mẹ học sinh và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS đạt hiệu quả cao hơn nữa.
III. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ
– Với kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy, tôi xin được đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS” để các đồng chí tham khảo, đóng góp ý kiến bổ sung để cùng nhau xây dựng các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS đạt hiệu quả cao hơn nữa.
– Đề nghị phòng Giáo dục, hằng năm các sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại cần được biên soạn lại và phổ biến về các cơ sở trường học để giáo viên tham khảo và vận dụng nhằm tăng tính khả thi của các đề tài nghiên cứu.
– Một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, công nghệ thông tin. Vì vậy nhà trường cần thu hút các nguồn đầu tư xây dựng, cung cấp phương tiện, công nghệ và có biện pháp sử dụng hợp lí để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục./
—————-HẾT—————-
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tâm lí học lưa tuổi và tâm lí học sư phạm ( Biên soạn ThS. Đỗ Văn Thông – Đại học An Giang, 2008).
2.Tình huống tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm ( Tác giả Đỗ Thị Châu – NXB GDHN, 2005).
3.Rèn kỹ năng sống cho học sinh THCS ( Tác giả Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Tú Phương – NXB ĐH QGHN, 2014).
4.Rèn kỹ năng sống dành cho học sinh ( Tác giả Lệ Nguyễn Khánh Hà – NXB ĐHSP, 2016).
5.Ngôn ngữ cơ thể( Dịch giả Lê Huy Lâm – NXB Tổng hợp TPHCM, 2017).
6. Tổ chức cuộc sống từ A đến Z ( Tác giả Lệ Hằng – NXB Tuổi trẻ năm, 2005).
7. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ( Tác giả Thùy Chi – NXB Lao động năm, 2009)
8. Nhập môn kỹ năng sống ( Tác giả TS. Huỳnh Văn Sơn – NXB Giáo dục, 2010)
9. Khi yêu thương là tôi có thể ( Nhiều tác giả Lệ Hằng – NXB Kim Đồng, năm 2009)
10. Tủ sách kỹ năng sống dành cho học sinh ( Dịch giả Nguyễn Thu Hương – NXB Đại học Sư phạm, năm 2016
11. Kỹ năng sống để làm chủ bản thân( Tác giả Phương Liên, Minh Đức – NXB Trẻ, năm 2006)
12. Một số tài liệu về Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.