Luật xử lý vi phạm hành chính 2020 – Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

Phần thứ ba

ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

Chương I

CÁC BIỆN PHÁP XỬ
LÝ HÀNH CHÍNH

Điều
89. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn

1. Giáo dục tại xã, phường, thị
trấn là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với các đối tượng quy định tại
Điều 90 của Luật này để giáo dục, quản lý họ tại nơi cư trú trong trường hợp
nhận thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi cộng đồng.

2. Thời hạn áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 03 tháng đến 06 tháng.

Điều 90.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
[138]

1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới
14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
quy định tại Bộ luật Hình sự.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy
định tại Bộ luật Hình sự.

3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành
chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi
gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái
phép.

4. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành
chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi
xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, chiếm giữ trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài
sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép nhưng không phải là tội phạm.

5. Người từ đủ 14 tuổi trở lên
đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính
tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép
chất ma túy.

6. Người từ đủ 18 tuổi trở lên
đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính
tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi xúc
phạm nhân phẩm, danh dự của người khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, chiếm giữ trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh
bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình nhưng không phải là tội
phạm.

7. Người quy định tại các khoản
1, 2, 3, 4 và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi quy định tại khoản 5 Điều
này mà không có nơi cư trú ổn định thì được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc
cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Người từ đủ 18 tuổi trở lên quy
định tại khoản 5 Điều này mà không có nơi cư trú ổn định thì giao cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy lần thứ ba
tổ chức quản lý.

Điều
91. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

1. Đưa vào trường giáo dưỡng là
biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật
quy định tại Điều 92 của Luật này nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề,
lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.

2. Thời hạn áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24 tháng.

Điều 92. Đối tượng bị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
[139]

1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại Bộ luật Hình sự.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc một tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự, trừ những tội phạm quy
định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật Hình sự.

3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 90 của Luật
này và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

4. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 4 Điều 90 của Luật này
nhưng không phải là tội phạm và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn.

5. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng đối với các trường hợp sau đây:

a) Người không có năng lực trách nhiệm hành
chính;

b) Người đang mang thai có chứng nhận của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên;

c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con
nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác
nhận.

Điều
93. Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

1. Đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có hành vi vi phạm
pháp luật quy định tại Điều 94 của Luật này để lao động, học văn hóa, học nghề,
sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục bắt buộc.

2. Thời hạn áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ 06 tháng đến 24 tháng.

Điều
94. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

1.[140] Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc bao gồm:

a) Người từ đủ 18 tuổi trở lên
đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính
tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi quy
định tại khoản 6 Điều 90 của Luật này nhưng không phải là tội phạm và không có
nơi cư trú ổn định;

b) Người từ đủ 18 tuổi trở lên
thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 6 Điều 90 của Luật này
nhưng không phải là tội phạm và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn.

2. Không áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với các trường hợp sau đây:

a) Người không có năng lực trách
nhiệm hành chính;

b) Người chưa đủ 18 tuổi;

c) Nữ trên 55 tuổi, nam trên 60
tuổi;

d) Người đang mang thai có chứng
nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên[141];

đ) Phụ nữ hoặc người duy nhất
đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
cư trú xác nhận.

Điều
95. Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có hành vi
vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh, lao động, học
văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Thời hạn áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng.

Điều
96. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.[142] Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên
thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo
quy định của Luật Phòng, chống ma túy.

2. Không áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau đây:

a) Người không có năng lực trách
nhiệm hành chính;

b) Người đang mang thai có chứng
nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên[143];

c) Phụ nữ hoặc người duy nhất
đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
cư trú xác nhận.

Chương II

THỦ TỤC LẬP HỒ
SƠ ĐỀ NGHỊ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

Điều
97. Lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn

1. Trưởng Công an cấp xã nơi
người vi phạm thuộc đối tượng quy định tại Điều 90 của Luật này cư trú
hoặc nơi họ có hành vi vi phạm pháp luật tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã hoặc đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị dân cư ở
cơ sở lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

2. Trong trường hợp người vi
phạm do cơ quan Công an cấp huyện hoặc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát
hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng quy định tại
Điều 90 của Luật này thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến
hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người đó.

3. Hồ sơ đề nghị gồm có bản tóm
tắt lý lịch, tài liệu về các hành vi vi phạm pháp luật của người đó, bệnh án
(nếu có), bản tường trình của người vi phạm và các tài liệu khác có
liên quan.

Đối với người chưa thành niên bị
xem xét áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì hồ sơ phải
có nhận xét của nhà trường, cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên đang
học tập, làm việc (nếu có), ý kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ.

4.[144] Cơ quan lập hồ sơ đề nghị quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ đề
nghị. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông
báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của
họ về việc lập hồ sơ; đối với người chưa thành niên thì còn phải thông báo cho
cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ
và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được thông báo.

Điều
98. Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn

1.[145] Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày
hết thời hạn đọc hồ sơ theo quy định tại khoản 4 Điều 97 của Luật này, cơ quan
lập hồ sơ đề nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 97 của Luật này gửi hồ
sơ cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức và chủ trì
cuộc họp tư vấn với sự tham gia của Trưởng Công an cấp xã, công chức tư pháp –
hộ tịch, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị
– xã hội, tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan, đại diện dân cư ở cơ sở. Người
bị đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người đại diện
hợp pháp của họ, cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên phải được mời
tham gia cuộc họp và phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng biện pháp.

2. Trong thời hạn 02 ngày làm
việc[146], kể từ ngày
kết thúc cuộc họp tư vấn quy định tại khoản 1 Điều này, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn. Tùy từng đối tượng mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định giao
người được giáo dục cho cơ quan, tổ chức, gia đình quản lý, giáo dục; nếu đối
tượng không có nơi cư trú ổn định thì giao cho cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ
giúp trẻ em để quản lý, giáo dục.

3. Quyết định áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định;
họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi
cư trú của người được giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều,
khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn áp dụng; ngày thi hành quyết
định; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình được giao giáo dục, quản lý
người được giáo dục; quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định của pháp luật.

4. Quyết định áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn có hiệu lực kể từ ngày ký và phải được gửi
ngay cho người được giáo dục, gia đình người đó, Hội đồng nhân dân cấp xã và
các cơ quan, tổ chức có liên quan.

5. Hồ sơ về việc áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải được đánh bút lục và được lưu trữ
theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

Điều
99. Lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

1. Việc lập hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với đối tượng quy định
tại Điều 92 của Luật này được thực hiện như sau:

a) Đối với người chưa thành
niên vi phạm có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng.

Hồ sơ đề nghị gồm có bản
tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp luật của người vi
phạm; biện pháp giáo dục đã áp dụng; bản tường trình của người vi
phạm, ý kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ, ý kiến
của nhà trường, cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên đang học tập hoặc
làm việc (nếu có) và các tài liệu khác có liên quan;

b) Đối với người chưa thành
niên vi phạm không có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

Hồ sơ đề nghị gồm có biên
bản vi phạm; bản tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp
luật của người đó; bản trích lục tiền án, tiền sự; biện pháp giáo dục đã áp
dụng (nếu có); bản tường trình của người vi phạm, ý kiến của cha mẹ hoặc
người đại diện hợp pháp của họ;

c) Cơ quan Công an cấp xã có
trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài
liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều
này.

2. Trong trường hợp người
chưa thành niên vi phạm do cơ quan Công an cấp huyện hoặc Công an cấp
tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm
pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc
đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng theo quy định tại Điều 92 của Luật
này thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu
thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng đối với người đó.

Hồ sơ đề nghị gồm có bản
tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp luật của người
đó; biện pháp giáo dục đã áp dụng; bản tường trình của người vi
phạm, ý kiến của cha mẹ hoặc của người đại diện hợp pháp của họ.

3.[147] Cơ quan lập hồ sơ đề nghị quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ đề
nghị. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông
báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng, cha mẹ hoặc người đại diện hợp
pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép
các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
thông báo.

Điều 100.
Xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

1.[148] Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày
hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại khoản 3 Điều 99 của Luật này, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã gửi hồ sơ cho Trưởng Công an cấp huyện. Trong thời hạn 02 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng Công an cấp huyện quyết định việc
chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì Trưởng Công an cấp huyện chuyển
lại cơ quan đã lập hồ sơ để bổ sung hồ sơ; thời hạn bổ sung là 02 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận lại hồ sơ. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được hồ sơ bổ sung, Trưởng Công an cấp huyện quyết định việc chuyển hồ sơ
đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

Trong thời hạn 01 ngày làm việc,
kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại khoản 3 Điều 99 của Luật này,
Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh trong trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 99 của Luật này quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án
nhân dân cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng có hành vi vi phạm để quyết
định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân
cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao
gồm:

a) Hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng quy định tại Điều 99 của Luật này;

b) Văn bản của Trưởng công an
cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh[149]
về việc đề nghị xem xét áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

3. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng phải được đánh bút lục và được lưu trữ theo quy
định của pháp luật về lưu trữ.

Điều
101. Lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc

1. Việc lập hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với đối tượng quy
định tại Điều 94 của Luật này được thực hiện như sau:

a) Đối với người vi phạm có
nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc.

Hồ sơ đề nghị gồm có bản
tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp luật của người
đó; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã áp dụng; bản tường
trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ và
các tài liệu khác có liên quan;

b) Đối với người không cư
trú tại nơi có hành vi vi phạm pháp luật thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã phải xác minh; trường hợp xác định được nơi cư trú thì có trách nhiệm chuyển
người đó kèm theo biên bản vi phạm về địa phương để xử lý; trường hợp không xác
định được nơi cư trú của người đó thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Hồ sơ đề nghị gồm có biên
bản vi phạm; bản tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp
luật của người đó; bản trích lục tiền án, tiền sự; biện pháp giáo dục đã áp
dụng (nếu có); bản tường trình của người vi phạm hoặc của người đại
diện hợp pháp của họ;

c) Công an cấp xã có trách
nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu
và lập hồ sơ đề nghị quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.

2. Trường hợp người vi phạm
do cơ quan Công an cấp huyện hoặc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát
hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc theo quy định tại Điều 94 của Luật này thì cơ quan
Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và
lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
đối với người đó.

Hồ sơ đề nghị gồm có bản
tóm tắt lý lịch; tài liệu về các hành vi vi phạm pháp luật của người
đó; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã áp dụng; bản tường
trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ.

3.[150] Cơ quan lập hồ sơ đề nghị quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ đề
nghị. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông báo
bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ
về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung
cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.

Điều
102. Xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

1.[151] Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày
hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại khoản 3 Điều 101 của Luật này hoặc kể từ
ngày Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc lập biên bản về hành vi vi phạm mới quy
định tại khoản 3 Điều 118 của Luật này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Giám
đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi hồ sơ cho Trưởng Công an cấp huyện. Trong
thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng Công an cấp huyện
quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì Trưởng
Công an cấp huyện chuyển lại cơ quan đã lập hồ sơ để bổ sung hồ sơ; thời hạn bổ
sung là 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận lại hồ sơ. Trong thời hạn 02 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung, Trưởng Công an cấp huyện quyết định
việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc.

Trong thời hạn 01 ngày làm việc,
kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại khoản 3 Điều 101 của Luật này,
Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh trong trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 101 của Luật này quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án
nhân dân cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp có hành vi vi phạm để
quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân
cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
bao gồm:

a) Hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc quy định tại Điều 101 và Điều 118 của Luật
này;

b) Văn bản của Trưởng Công an
cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh[152]
về việc đề nghị xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

3. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc phải được đánh bút lục và được lưu trữ
theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

Điều 103.
Lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
[153]

1. Việc lập hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy
quy định tại Điều 96 của Luật này được thực hiện như sau:

a) Đối với người nghiện ma túy
có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú
lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

b) Đối với người nghiện ma túy
không có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó có
hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc;

c) Trường hợp người nghiện ma
túy do cơ quan Công an cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện,
điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều 96 của Luật này thì cơ quan Công an
đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đó;

d) Hồ sơ đề nghị gồm có biên bản
vi phạm; bản tóm tắt lý lịch; tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện
tại của người đó; bản tường trình của người nghiện ma túy hoặc của người đại
diện hợp pháp của họ và các tài liệu khác có liên quan;

đ) Công an cấp xã có trách nhiệm
giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu và lập hồ sơ đề
nghị quy định tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều này.

2. Cơ quan lập hồ sơ đề nghị quy
định tại khoản 1 Điều này phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ đề
nghị. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải thông
báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những
người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.

Điều 104.
Xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.[154] Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày
hết thời hạn đọc hồ sơ, Công an cấp tỉnh gửi hồ sơ cho Trưởng phòng Phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp
có hành vi vi phạm; Công an cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã gửi hồ
sơ cho Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện. Trong
thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng phòng Phòng Lao động
– Thương binh và Xã hội cấp huyện quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân
dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp
hồ sơ chưa đầy đủ thì Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp
huyện chuyển lại cơ quan đã lập hồ sơ để bổ sung hồ sơ; thời hạn bổ sung là 02
ngày làm việc, kể từ ngày nhận lại hồ sơ. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung, Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và
Xã hội cấp huyện quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân
cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc bao gồm:

a) Hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều 103 của Luật này;

b) Văn bản của Trưởng phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội cấp huyện về việc đề nghị xem xét áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được đánh bút lục và được lưu trữ
theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

Chương III

THẨM QUYỀN, THỦ
TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

Điều
105. Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn.

2. Tòa án nhân dân cấp huyện có
thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều
106. Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính

Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc
áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương IV

THI HÀNH QUYẾT
ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

Điều
107. Gửi quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để thi hành

[155]

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ
ngày quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính có hiệu lực, Tòa án nhân dân
đã ra quyết định phải gửi quyết định cho người bị áp dụng, cơ quan đã gửi hồ sơ
đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc cơ quan Công an cùng cấp trong
trường hợp Công an cấp tỉnh lập hồ sơ đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó cư trú và các cơ quan hữu quan để thi hành theo quy định của pháp luật;
quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng còn được gửi cho cha mẹ
hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

Điều
108. Thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính

1. Quyết định áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn và quyết định áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng hết thời hiệu thi hành sau 06 tháng, kể từ ngày quyết định có
hiệu lực pháp luật.

2. Quyết định áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và quyết định áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc hết thời hiệu thi hành sau 01 năm, kể từ ngày quyết
định có hiệu lực pháp luật.

3. Trong trường hợp người phải
chấp hành quyết định cố tình trốn tránh việc thi hành, thì thời hiệu quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tính kể từ thời điểm hành vi trốn
tránh chấm dứt.

Điều
109. Thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn

1. Sau khi nhận được quyết định
áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức được giao
giáo dục, quản lý có trách nhiệm:

a) Tổ chức việc thực hiện biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người được giáo dục;

b) Phân công người trực tiếp
giúp đỡ người được giáo dục;

c) Ghi sổ theo dõi và định kỳ
báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc thực hiện quyết định giáo dục
tại xã, phường, thị trấn;

d) Giúp đỡ, động viên người được
giáo dục, đề xuất với Ủy ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện cho họ tìm kiếm việc
làm.

2. Người được phân công giúp đỡ
phải có kế hoạch quản lý, giáo dục, giúp đỡ người được giáo dục và được hưởng
khoản kinh phí hỗ trợ cho việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ theo quy định của
pháp luật.

3. Người được giáo dục phải cam
kết bằng văn bản về việc chấp hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị
trấn.

4. Gia đình có người được giáo
dục có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với người được phân công giúp đỡ trong
việc quản lý, giáo dục người được giáo dục.

Điều
110. Thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.[156] Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc hoặc quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan nhận được
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính quy định tại Điều 107 của Luật
này có trách nhiệm tổ chức thi hành như sau:

a) Công an cấp huyện đưa người
phải chấp hành quyết định vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc;

b) Phòng Lao động – Thương binh
và Xã hội phối hợp với Công an cấp huyện đưa người phải chấp hành quyết định
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Thời hạn chấp hành quyết định
được tính từ ngày người phải chấp hành quyết định bị tạm giữ để đưa đi trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3. Chính phủ quy định chi
tiết việc thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều
111. Hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Người phải chấp hành quyết
định nhưng chưa đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng có chứng nhận
của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên[157];

b) Gia đình đang có khó khăn đặc
biệt được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Khi điều kiện hoãn chấp hành
quyết định không còn thì quyết định được tiếp tục thi hành.

2. Người phải chấp hành quyết
định nhưng chưa đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Mắc bệnh hiểm nghèo có chứng
nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên[158];

b) Trong thời gian hoãn chấp
hành quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà người đó có tiến
bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công hoặc không còn
nghiện ma túy;

c) Đang mang thai có chứng nhận
của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên[159].

3. Tòa án nhân dân cấp huyện nơi
đã ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc xem xét, quyết định việc
hoãn hoặc miễn chấp hành trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết
định hoặc người đại diện hợp pháp của họ; trong trường hợp cần thiết thì đề
nghị cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị có ý kiến trước khi quyết định.

Quyết định miễn hoặc hoãn chấp
hành phải được gửi cho cơ quan thi hành quyết định, người phải chấp hành quyết
định; trường hợp người chưa thành niên được hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa
vào trường giáo dưỡng thì quyết định được gửi cho cha mẹ hoặc người đại diện
hợp pháp của họ.

Điều
112. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Người đang chấp hành quyết
định tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
đã chấp hành một nửa thời hạn, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công, thì được
xét giảm một phần hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

2. Trong trường hợp người đang
chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc bị ốm nặng mà được đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình
chỉ chấp hành quyết định; thời gian điều trị được tính vào thời hạn chấp hành
quyết định; nếu sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ
03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành; nếu trong thời gian tạm
đình chỉ mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành
phần thời gian còn lại. Đối với người mắc bệnh hiểm nghèo, phụ nữ mang thai thì
được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

3. Tòa án nhân dân cấp huyện nơi
có trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết
định việc giảm thời hạn tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám
đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Quyết định tạm đình chỉ hoặc
miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được gửi cho Tòa án
nhân dân nơi ra quyết định, cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người đó cư trú, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc, người được tạm đình chỉ hoặc miễn và gia đình người đó.

4. Đối tượng ốm nặng, mắc bệnh
hiểm nghèo mà không xác định được nơi cư trú thuộc trường hợp được tạm đình
chỉ chấp hành quyết định hoặc được miễn chấp hành phần thời gian
còn lại quy định tại khoản 2 Điều này thì được đưa về cơ sở y tế tại
địa phương nơi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc đóng trụ sở để điều trị.

Điều
113. Quản lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành quyết định áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Người được hoãn hoặc được tạm
đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm trình diện với Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.

2. Trong thời gian được hoãn
hoặc được tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc mà người đó tiếp tục có hành vi vi phạm đã bị xử lý
hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì Tòa án nhân dân cấp huyện đã
ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định buộc
chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc.

Trong thời gian được hoãn hoặc
được tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà
người đó tiếp tục sử dụng ma túy hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì
Tòa án nhân dân cấp huyện đã ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ hủy bỏ
quyết định đó và ra quyết định buộc chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.

3. Quyết định buộc chấp hành
quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc được gửi cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã
ra quyết định. Ngay sau khi nhận được quyết định, cơ quan Công an phải tổ chức
áp giải đối tượng.

Điều
114. Hết thời hạn chấp hành quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

1. Khi người vi phạm đã chấp
hành xong quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã cấp giấy chứng nhận cho người đã chấp hành xong và gửi bản sao cho
gia đình người đó.

2. Khi người vi phạm đã chấp
hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám
đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc cấp giấy
chứng nhận cho người đã chấp hành xong và gửi bản sao cho gia đình người đó,
Tòa án nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định, cơ quan quản lý trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người đó cư trú.

3. Đối tượng không xác định được
nơi cư trú là người chưa thành niên hoặc người ốm yếu không còn khả
năng lao động thì sau khi hết hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được đưa về cơ sở
bảo trợ xã hội tại địa phương nơi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở.

Chương
V

CÁC QUY ĐỊNH KHÁC
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

Điều
115. Tạm thời đưa người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ra khỏi nơi chấp
hành biện pháp xử lý hành chính theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự

1. Theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ
sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định tạm thời
đưa người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính ra khỏi nơi chấp hành biện
pháp đó để tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó.

2. Thời gian tạm thời đưa ra
khỏi nơi chấp hành biện pháp xử lý hành chính được tính vào thời hạn chấp hành
biện pháp đó.

Điều
116. Chuyển hồ sơ của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có dấu
hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự

1. Khi xem xét hồ sơ của đối
tượng để quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu xét thấy hành vi vi
phạm của người đó có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay
hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

 2. Đối với trường hợp đã
ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu sau đó phát hiện hành vi
vi phạm của người bị áp dụng biện pháp này có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân hoặc Tòa
án nhân dân đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải hủy quyết
định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày hủy quyết định phải chuyển hồ sơ
của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Trường hợp bị Tòa án xử phạt tù
thì thời hạn đối tượng đã chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tính vào
thời hạn chấp hành hình phạt tù; 1,5 ngày chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được
tính bằng 01 ngày chấp hành hình phạt tù.

Điều
117. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước
hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính

Trường hợp phát hiện người bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đã thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong
thời gian chấp hành quyết định, thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự có thẩm quyền, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang thi hành biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám
đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải ra quyết
định tạm đình chỉ thi hành quyết định đối với người đó và chuyển hồ sơ của đối
tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp bị Tòa án xử phạt tù
thì người đó được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình
phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính.

Điều
118. Xử lý trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Trường hợp người thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Trường hợp người nghiện ma
túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc. Cơ sở giáo dục bắt buộc thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này.

3.[160] Trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi, đối
tượng đang chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc có hành vi vi
phạm quy định tại khoản 1 Điều 94 của Luật này thì bị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc.

Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt
buộc tiến hành lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với đối
tượng có hành vi vi phạm trên cơ sở hồ sơ hiện có và biên bản về hành vi vi
phạm mới gửi Trưởng Công an cấp huyện nơi có cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thủ tục xem xét áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với đối tượng này được thực hiện theo
quy định của Luật này.