Luận văn Tìm hiểu một số phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
Sau khi nghiên cứu lí luận và quan sát thăm dò thực tế vai trò của chúng đối với việc giáo dục
đạo đức cho trẻ mầm non cũng như thực trạng sử dụng các phương tiện này vào việc giáo dục đạo đức
cho trẻ ở các trường mầm non hiện nay chúng tôi xin đề xuất một sô ý kiến nhằm giải quyết vân đề trên:
• Để mọi người thấy rõ vai trò quan trọng của việc giáo dục đạo đức đồng thời hiểu rõ hơn về
vai trò của một số phương tiện giáo dục đạo đức cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng
về nội dung, nhiệm vụ giáo dục đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức đối vời sự
phát triển nhân cách của trẻ mầm non cho tất cả mọi người trong xã hội; từ cha mẹ trẻ đến giáo
viên mầm non – những người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ trong độ tuổi từ 0 -6 tuổi.
• Được trực tiếp tham gia vào mọi hoạt động là điều kiện tốt để các phẩm chất đạo đức hình
thành. Vì thế, trong qua trình giáo dục đạo đức cho trẻ, người lớn cần tạo môi trường hoạtđộng sao cho có thể kích thích trẻ tham gia tích cực vào đó. Ở trường mầm non, bằng những
lời động viên, khen ngợi cô cần kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động ở lớp như: lao động
tự phục vụ, trật nhật, chăm sóc cây cối. Ở nhà cha mẹ cần tạo điều kiện cho trẻ được làm
những việc vừa sức.
• Ngoài ra trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ thì việc đẩy mạnh công tác phối hợp giáo
dục giữa gia đình nhà trường và xã hội, tăng cường các buổi trò chuyện trao đổi giữa phụ
huynh và nhà trường, chú trọng xây dựng các góc thông tin ở trường lớp sẽ là cầu nối vững
chắc để nhà trường và gia đình phối hợp với nhau trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ.
63 trang
|
Chia sẻ: builinh123
| Lượt xem: 4706
| Lượt tải: 11
Bạn đang xem trước
20 trang
tài liệu Luận văn Tìm hiểu một số phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhau xuất hiện vào cuối năm thứ 2 đầu năm thứ 3.
Ở giai đoạn đầu giao tiếp được thực hiện ở dạng hành động thực hành – tình cảm (2- 4 tuổi).
Năm thứ 3 và năm thứ 4 nhu cầu giao tiếp của trẻ thể hiện dưới dạng cùng nhau nô đùa, trẻ chỉ cần bạn
tham gia nô đùa với mình là đủ. Trẻ hời hợt và hiếm khi liên kết với nhau. Nhưng đến năm thứ 4 và
năm thứ 5 nhu cầu giao tiếp của trẻ được nâng lên. Nội dung nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với bạn cùng
tuổi là sự hợp tác cùng nhau trên cơ sở công việc. Hay nói cách khác giao tiếp giữa trẻ với bạn cùng
tuổi ở giai đoạn này là giao tiếp công việc tình huống. Trong giao tiếp công việc tình huống trẻ tham
gia vào công việc chung mang tính tập thể, tất cả đều cố gắng phối hợp hành động để đạt chung mục
đích. Sự hợp tác giữa trẻ với trẻ khác biệt so với sự hợp tác giữa trẻ với người lớn. Nếu hợp tác giữa
trẻ với người lớn làm cho hoạt động của trẻ mang tính mục đích thì hợp tác giữa trẻ với trẻ chỉ làm
thoa mãn nhu cầu hoạt động của trẻ. Cũng giống như giao tiếp hành động thực hành xúc cảm, trong
giao tiếp công việc tình huống trẻ rất mong muốn trở thành đối tượng lôi cuốn hứng thú và nhận xét
đánh giá của bạn bè. Trong quan hệ với bạn bè ở thời điểm này trẻ chỉ nhìn thấy bản thân mình là
chính (thái độ của trẻ khác với chính mình) nhưng chỉ thấy ưu điểm. Muộn hơn trẻ cũng nhìn thấy thái
độ của nó đối với bạn nhưng trẻ lại nhận thấy nhược điểm. Hiện tượng không nhận thấy quan hệ của
bản thân với trẻ khác của trẻ mẫu giáo mang một nét đặc trưng là nó biểu hiện tính hờn ghen trong
hứng thú của nó đối với tất cả mọi cái mà bạn bè nó làm.
Cuối tuổi mẫu giáo, ở trẻ hình thành dạng giao tiếp mới đó là giao tiếp công việc ngoài tình
huống. Vào khỏang 5 – 6 tuổi những nét sơ dẳng của dạng giao tiếp này đã được hình thành một cách
rõ nét trong trẻ. Sự mong muốn cùng hợp tác hoạt độngthúc đẩy trẻ đến với các quan hệ giao tiếp phức
tạp hơn. Cũng như dạng giao tiếp công việc tình huống, giao tiếp ngoài tình huống cũng mang tính
chất thực hành, công việc được triển khai trên nền tảng của hoạt động vui chơi cùng nhau.
Như vậy trong giao tiếp giữa trẻ với trẻ, ở tuổi mầm non trãi qua 3 giai đoạn :
– Hành động thực hành – cảm xúc
– Giao tiếp công việc tình huống
– Giao tiếp công việc ngoài tình huống.
2.4.2. Giao tiếp với việc lĩnh hội các chuẩn đạo đức của trẻ mầm non.
Một đứa trẻ sinh ra như một con người bước vào thế giới. Nhưng hiện tại mới chỉ là tiềm năng.
Nó chỉ có những điều kiện to lớn: bộ não với hàng tỷ tế bào thần kinh, các cơ vận động, thanh quản
cho phép phát ra các âm thanh khác nhau … nhưng chưa có sự phát triển người nào xuất hiện ở trẻ.
Dần dần qua quá trình tiếp thu kinh nghiệm của xã hội loài người dưới sự giúp đỡ của người lớn, các
yếu tố người ở trẻ mới hình thành và phát triển. Dưới sự giúp đỡ của người lớn xung quanh, trẻ được
họ truyền cho kinh nghiệm và dạy chúng phát triển thành người. Rõ ràng đối với trẻ người lớn đóng
vai trò là người thể hiện kinh nghiệm này. Những hành vi, việc làm của người lớn là chuẩn mực về
những gì cần làm và làm như thế nào đối với trẻ. Những ý kiến đánh giá nhận xét của người lớn tạo
điều kiện củng cố những hành động có ích và loại trừ những hành động không cần thiết và có hại ở trẻ,
đánh thức tính tích cực và hướng dẫn tính tích cực đó ở trẻ. Tất cả những điều trên được diễn ra trong
quá trình tác động qua lại và giao tiếp hằng ngày giữa người lớn và trẻ mầm non. Sự tiếp xúc và giao
tiếp với người lớn về cơ bản quyết định xu hướng và nhịp độ phát triển của trẻ nhất là phát triển đạo
đức. Chính trong quá trình giao tiếp với người lớn trẻ thu nhận được những ý niệm về các mẫu hành vi
trong thực tế và nắm vững chúng. Ví dụ trong qua trình giao tiếp với người lớn bằng tiếp xúc trực tiếp
tay cầm tay, má áp má, đến cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nụ cười, âm thanh ngôn ngữ của người lớn trẻ
nắm được các chuẩn hành vi ứng xử mà xã hội qui định trong quan hệ giữa người với người. Cụ thể
trong quan hệ với mẹ thì được tự nhiên, thoải mái, được quyền nũng nịu với mẹ. Nhưng trong quan hệ
với bố, hành vi thái độ phải dứt khoát rõ ràng, nói năng mạch lạc. Quan hệ với ông bà và người lớn
tuổi phải thể hiện được sự kính trọng, nói năng lễ phép, muốn xin phép điều gì phải khoanh tay trước
ngực. Quan hệ với bạn bè phải thể hiện sự nhường nhịn thương yêu quí trọng bạn.
Trong giao tiếp với người lớn ngoài những mẫu hành vi ứng xử giữa người và người trẻ còn tiếp
nhận những hành vi ứng xử giao tiếp với mọi người qua đồ vật. Ví dụ đưa cho cha mẹ, ông bà cái gì
phải đưa bằng hai tay cung kính. Rõ ràng những mẫu hành vi ứng xử dạng này đã hình thành cho trẻ
tính lễ phép, tôn trọng người lớn. Khuôn mẫu hành vi tự phục vụ bản thân như uống nước, mặc quần
áo, vệ sinh cá nhân hình thành cho trẻ nếp sống văn minh sạch sẽ. Như vậy trong quá trình giao tiếp
với người lớn trẻ tiếp nhận rất nhiều chuẩn mực hành vi ứng xử giữa người với người. Những chuẩn
mực hành vi này là tiền đề của nhân cách (một số nhà tâm lí học còn gọi là nhân cách gốc). Qua hướng
dẫn làm mẫu hoặc vô tình do người lớn truyền cho, trẻ tiếp nhận một cách chính xác những mẫu hành
vi này. Nếu không có sự giao tiếp trao đổi với người lớn chắc chắn trẻ sẽ không lĩnh hội được những
chuẩn mực ứng xử này. Điều này cũng đồng nghĩa với các chuẩn mực đạo đức ở trẻ không có cơ sở để
hình thành và phát triển. Vào cuối thế kỉ trước đầu thế kỉ này, ở trại tế bần, người ta tìm được những
đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống ngoài môi trường giáo dục. Những đứa trẻ này rất chậm phát triển
về thể chất, và đặc biệt là chậm phát triển về tâm lí. Trẻ ở đây sống tách biệt, tự thu mình lại, tự cô lập,
ở chúng xuất hiện thái độ tiêu cực đối với mọi người xung quanh xa lánh tất cả. Vì thế cho đến năm
thứ 3 những đức trẻ này vẫn không có được những thói quen tự phục vụ sơ đẳng nhất, không giữ được
vệ sinh gọn gàng, ngăn nắp, chúng hầu như không nói chuyện và tiếp nhận những tác động của giáo
dục rất kém. Do đó trong quan hệ với mọi người ở trẻ xuất hiện tính thụ động nặng nề, tính cục cằn
nóng nảy. (18) Ví dụ trên một lần nữa khẳng định vai trò của giao tiếp với sự phát triển tình cảm đạo
đức của trẻ lứa tuổi mầm non. Nhờ có giao tiếp mà các chuẩn hành vi ứng xử giữa người và người
được hình thành trong trẻ, làm cơ sở nền tảng cho các chuẩn đạo đức về quan hệ ứng xử với mọi
người, về thái độ lễ phép, về lối sống văn minh sạch sẽ được hình thành và phát triển.
Trong lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo, giao tiếp có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển đạo đức của
trẻ. Ý nghĩa của giao tiếp đối với trẻ không giảm đi theo lứa tuổi mà tác động của nó ngày càng phức
tạp hơn, sâu sắc hơn. Nhiều nghiên cứu đã xác định ảnh hưởng tốt của giao tiếp được biểu hiện ở khả
năng thúc đẩy nhanh quá trình phát triển đạo đức của trẻ. Trong giao tiếp với người lớn nhất là giao
tiếp tình huống trẻ bắt đầu quan tâm đến mọi vật xung quanh, Cái gật đầu vừa ý hay vẻ mặt cau có của
người lớn trong khi giao tiếp đều được trẻ chú ý và bày tỏ thái độ rõ rệt. Trẻ vui mừng và tự tin tiếp tục
thực hiện công việc hay hành động nào đó nếu nhận được sự đồng tình ủng hộ của người lớn, ngược
lại trẻ sẽ nhanh chóng nhận ra việc làm hoặc hành động đó của mình là không đúng và kịp thời điều
chỉnh nếu nhận thấy vẻ mặt khó chịu hay những cái lắc đầu không vừa ý. Đây là điều kiện tốt giúp trẻ
đánh giá được hành động của mình đồng thời còn giúp trẻ lĩnh hội chính xác về chuẩn hành vi tốt,
hành vi xấu mà xã hội đã qui định. Từ việc lĩnh hội này trẻ sẽ có ý thức điều tiết hành vi của mình sao
cho phù hợp với mọi người xung quanh. Ý thức tự kiềm chế gián tiếp được hình thành trong trẻ thông
qua yếu tố trên. Bé Bảo Trân thường ngày chơi với bạn rất tốt nhưng hôm nay lại lớn tiếng với bạn ”
tớ đóng vai cô giáo. Cậu không được giành với tớ, hiểu chưa “chỉ vì bạn giành đóng vai cô giáo – một
vai mà Trân rất thích. Từ góc gia đình cô giáo My đã nghe tất cả. Cô đến chỗ Trân và các bạn bằng
thái độ nghiêm nghị” Trân nói như vậy là không ngoan, cô và các bạn không thương nữa. Hôm qua
Trân đóng vai cô giáo rồi, hôm nay Trân phải nhường bạn chứ. Có như vậy mới đúng là bé ngoan của
lớp chồi C”. Nhìn thái độ nghiêm nghị cùng những lời giải thích của cô giáo My, Bảo Trân hiểu hành
động của mình đối với bạn ban nãy là không đúng. Bé lập tức xin lỗi và nhường cho bạn đóng vai cô
giáo còn rết vui vẻ nhận vai học trò. Đây là câu chuyện có thật xảy ra tại lớp chồi c thuộc trường mầm
non Bán Công Tuổi Thơ 7 Quận 3. Qua câu chuyện trên chúng ta thấy rằng rõ ràng nhờ được giao tiếp
cùng cô nên bé Trân đã nhận ra hành vi sai trái của mình đồng thời bé cũng nhận biết được đâu là hành
vi tốt, đâu là hành vi xấu. Từ đó trong giao tiếp với mọi người Trân biết tự điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp. Tính tự kiềm chế gián tiếp được hình thành trong Trân.
Ngoài ra khi giao tiếp, tiếp xúc với người lớn cũng làm xuất hiện ở trẻ mong muốn cùng chia sẻ
với người lớn những tình cảm, cảm xúc của mình đồng thời cũng xuất hiện khả năng đồng cảm với họ.
Nhìn thấy người lớn xuýt xoa một đứa bé bị ngã, trẻ cũng bắt chước xuýt xoa “bạn đau lắm nhỉ” khi
bạn bị ngã. Trong khi giao tiếp trẻ có cơ hội hiểu biết mình và những người khác cùng giao tiếp với
mình. Có cơ hội để so sánh mình với người khác, nhận thức các hành động, quan điểm, sự đánh giá, sự
hiểu biết những khả năng tiềm tàng của bản thân và của người khác, cho phép trẻ so sánh mình với
người khác, hiểu người khác đánh giá mình như thế nào. Những mối liên hệ tình cảm với người lớn ở
trẻ được hình thành. Điều này tạo điều kiện cho việc hình thành ở trẻ thái độ tốt đối với mọi người, với
thế giới xung quanh, lòng tự tin vào chính mình. Đức tính trung thực ở trẻ cũng được xuất hiện và phát
triển thông qua giao tiếp. Ở một trường mẫu giáo nọ, có một đứa trẻ 4 tuổi rất hay lấy đồ ở lớp về nhà.
Khi mẹ hỏi, nó bảo cô giáo cho nó, người mẹ mang chuyện này kể cho cô nghe. Cô giáo phát hiện tính
trung thực chưa hình thành ở đứa bé này. Ngày hôm sau khi trẻ đến lớp cô kể cho trẻ nghe câu truyện
“Làm cách nào hay hơn” và cùng đàm thoại với trẻ về nội dung câu truyện ấy.
• Trong câu truyện có những ai?
• Ai được bố khen là ngoan ?
• Vì sao đứa bé thứ ba lại được bố khen ?
• Điều gì đã xảy ra với hai đứa trẻ nói dối ?
Sau khi đàm thoại trao đổi với cô về nội dung truyện đứa trẻ dần nhận thức được thế nào là
trung thực, thế nào là không trung thực, nó hiểu được hậu quả của việc không trung thực là gì. Từ đó
đứa bé không bao giờ dám nói dối mọi người nữa. Điều này có nghĩa tính trung thực đã được hình
thành trong trẻ. Rõ ràng nhờ trò truyện với cô mà trẻ nắm được chuẩn đạo đức về lòng trung thực
cũng nhờ đó trẻ kịp thời chỉnh sửa những hành vi mà ban đầu chính trẻ chưa nhận thức được thế nào
là không trung thực. Khái niệm trung thực và hành vi trung thực sẽ vô nghĩa nếu không sử dụng trong
giao tiếp với mọi người trong các quan hệ xã hội.
Trong cuộc sống của mình trẻ không chỉ giao tiếp với người lớn mà chúng còn giao tiếp với
nhau. Lúc này mỗi đứa trẻ là một thành viên trong hoạt động cùng nhau, chúng quan tâm trước hết
đến việc lôi cuốn, chú ý của bạn bè đến bản thân mình, chúng bắt đầu để ý đến sự đánh giá của bạn bè
về hoạt động của mình. Nhờ đó phát triển ở trẻ tính tích cực, năng động, bởi vì trẻ cảm thấy bình
đẳng, độc lập với nhau trong hoạt động cùng nhau. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tình
cảm, xúc cảm phong phú của trẻ góp phần tích cực cho việc hình thành tự ý thức và cơ sở ban đầu cho
nhân cách trẻ. Nó giúp trẻ nhận thức được năng lực của bản thân mình.
Như vậy có thể khẳng định rằng hoạt động giao tiếp là con đường đảm bảo cho trẻ tri giác một
cách tự nhiên những chuẩn mực hành vi ứng xử của mọi người xung quanh. Đảm bảo hình thành cho
trẻ tất cả các yếu tố, phẩm chất đạo đức cần cho quá trình phát triển nhân cách như: tính trung thực, ý
thức tự kiềm chế, nếp sống văn minh sạch sẽ, thái độ lễ phép và tôn trọng người lớn. Ngoài ra nó còn
đảm bảo cho trẻ sẵn sàng thay đổi các hành động của mình phù hợp với yêu cầu của mọi người xung
quanh và cởi mở với mọi người. Nếu không có hoạt động giao tiếp hay vì một lí do nào đó mà hoạt
động giao tiếp không được diễn ra chắc chắn nhân cách của trẻ cũng không có điều kiện để hình
thành, đứa trẻ không thể lớn lên thành người theo đúng nghĩa của nó. Rõ ràng giao tiếp là phương tiện
khổng thể thiếu trong công tác giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho trẻ lứa tuổi mầm non.
2.5. Lao động cũng là một trong những phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng
cho trẻ mầm non.
2.5.1. Đặc điểm lao động của trẻ mầm non.
Có thể nói lao động của trẻ mầm non hoàn toàn khác với lao động của người lớn. Nếu lao động
của người lớn là những hành động có mục đích thì ở trẻ mầm non những hành động này hoàn toàn
chưa mang tính mục đích. Căn cứ vào đâu ta lại kết luận như vậy? Xem xét tất cả những yếu tố tạo nên
bản chất của quá trình lao động ở trẻ sẽ giải đáp chính xác câu hỏi trên.
– Đặt mục đích
Trẻ lứa tuổi mầm non chưa biết đặt mục đích cho hành động lao động của mình, những hành
động của lứa tuổi này chỉ là những hành động theo trình tự. Hành động theo trình tự khác với hành
động có mục đích ở chỗ nó có thể nhắc lại nhiều lần mà không đeo đuổi một nhiệm vụ nhất định, trẻ
hành động vì thấy thích. Rõ ràng tính chất hợp lí của các hành động (có đặc tính của hành động với đồ
vật) xuất hiện trên cơ sở bắt chước. Sự bắt chước của trẻ ngay từ đầu đã có tính chất rất tinh khôn. Khi
bắt chước hành động phức tạp của người lớn trẻ hiểu ý nghĩa của chúng. Cụ thể khi hành động với đồ
vật trẻ sẽ hiểu công dụng và cách sử dụng nó. Chẳng hạn khi bắt chước hành động cầm thìa xúc cơm
và cầm ly uống nước của người lớn trẻ hiểu thìa dùng để xúc cơm, ly dùng uống nước chứ không phải
để ném đi như trước đây trẻ vẫn làm. Hoặc những hành động mà trẻ 1 tuổi rưỡi, 2 tuổi thường bắt
chước người lớn như tự mặc quần áo, tự mang giày… sẽ giúp trẻ hiểu công dụng của quần áo, giày dép
và cách sử dụng chúng. Mặc dù những hành động bắt chước này còn thô sơ nhưng chúng lại có ý
nghĩa rất lớn vì trong đa số trường hợp trẻ đạt được mục đích do hoàn thành hành động độc nhất này.
Những hành động này không còn là trò chơi mà nó tiến hành trong thực tế có sự xuất hiện của mầm
mống lao động. Sau này ở lứa tuổi 3 – 4 tuổi đó là những hình thức lao động trong gia đình, lao động
tự phục vụ và lao động thủ cổng.
Trẻ 2 -3 tuổi thường đặt ra mục đích mà không thể thực hiện được. Trẻ muốn làm một cái gì đó
nhưng chưa hình dung là có thể làm được hay không. Sau này trẻ không muốn làm những việc quá sức
vì theo kinh nghiệm trẻ biết những việc không trôi chảy dễ gây chán nản. Do đó khi hình thành hành
động có mục đích nên tránh những việc làm quá sức trẻ. Trong thời gian này mục đích lao động đối
với trẻ phải cụ thể trực quan.
Trẻ 5 – 6 tuổi đã có khả năng đặt mục đích trong những công việc quen thuộc thường ngày
như : thu dọn đồ chơi, sách vở, tự giặt quần áo cho búp bê … Những hành động có mục đích của trẻ lứa
tuổi này rất bền vững vì có những động cơ mang tính chất xã hội.
– Đặt kế hoạch hoạt động:
Trong lao động tính tích cực sáng tạo của trẻ có ý nghĩa quan trọng: suy nghĩ đến công việc sắp
làm: chọn các vật liệu, dụng cụ cần thiết, khắc phục khó khăn để đạt kết quả đề ra. Đó là việc xây
dựng kế hoạch hoạt động.
Lúc đầu trẻ chưa có khả năng đặt kế hoạch hoạt động nên giáo viên sẽ đặt hộ. Trẻ 5 -6 tuổi có
thể đặt kế hoạch sơ bộ đơn giản. Khả năng đặt kế hoạch hoạt động được hình thành dần dần từ những
hành động đơn giản được thực hiện theo trình tự logic. Ví dụ trẻ mẫu giáo bé có thể đề ra yêu cầu hành
động có tổ chức trong quá trình sinh hoạt. Lúc đầu làm gì, sau đó làm gì, vì sau làm theo trình tự này
chứ không làm theo một trình tự khác (Đi rửa mặt: mở vòi nước, sát xà phòng, rửa sạch, lau khô). Từ
cách đặt kế hoạch đơn giản dần dần chuyển sang những hình thức đặt kế hoạch phức tạp hơn đối với
trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn. Trong một số quá trình lao động rất phổ biến của lớp nhỡ và lớn phải thường
xuyên qui định trình tự logic của hành động, tạo ra cho kế hoạch hành động đơn giản nhất. Ví dụ khi
chăm sóc cây cỏ trong phòng, nên bố trí thế nào để trẻ tiện lau chùi, tưới cây. Muốn vậy đầu tiên phải
mang chậu hoa từ trên kệ vào bàn, sau đó lau lá, tưới cây, lau kệ rồi mới đem chậu hoa đặt lên chỗ cũ.
Nếu không có kế hoạch trẻ sẽ làm lộn xộn. Trong quá trình làm việc phải lưu ý trẻ đến trình tự logic
của hành động dẫn đến kết quả tốt đẹp nhất (mất ít thời gian, công sức, lại tiện lợi nhất). Nếu hoạt
động của trẻ không có phương hướng trẻ sẽ làm nhiều động tác thừa không cần thiết dẫn đến kết quả
không cao. Nếu không có kĩ xảo đặt kế hoạch trẻ phải thử và sai phạm nhiều lần, điều này làm trẻ mất
sức và không hài lòng với kết quả thu được. Muốn dạy trẻ cách đặt kế hoạch phải tập cho trẻ suy nghĩ
sơ bộ về hoạt động của mình, phải đặt câu hỏi cho trẻ “cháu sẽ làm như thế nào, làm với những dụng
cụ nào …” Nên đặt trẻ vào điều kiện bắt buộc phải suy nghĩ sơ bộ về quá trình hoạt động, nên vạch cho
trẻ những nhiệm vụ mới. Như vậy trong quá trình lao động trẻ tập đặt kế hoạch. Việc hoàn thành kĩ
xảo đặt kế hoạch diễn ra trong công việc hằng ngày như (trực nhật, chăm sóc góc thiên nhiên) có thể
thông qua tranh ảnh mô tả trình tự lao động…
– Kết quả lao động
Hoạt động lao động bao giờ cũng đòi hỏi nổ lực cố gắng để đạt kết quả. Đó là đặt điểm của lao
động, nó khác với trò chơi là hình thức có thể kết thúc hoặc không kết thúc. Trong trò chơi, kết quả
không phải lúc nào cũng cần thiết. Nhưng trong lao động, kết quả là thành phần bắt buộc của hoạt
động. Kết quả được coi như thước đo sức lực bỏ ra để đạt mục đích. Tuy vậy không thể coi kết quả là
nhiệm vụ chính của hoạt động trong trường mẫu giáo. Việc đạt kết quả trước hết có ý nghĩa như là một
yếu tố sư phạm có tác dụng giáo dục cho trẻ hứng thú lao động, giúp trẻ biết đánh giá đúng kết quả lao
động, so sánh với thành tích của bạn. Việc dẫn đến kết quả khi kết thúc công việc có ảnh hưởng nhất
định đến trẻ. Phải làm cho trẻ thấy được thành tích của mình. Muốn vậy giáo viên phải luôn nhận xét,
xác nhận những thành tích của trẻ một cách công bằng đồng thời sử dụng mọi hoàn cảnh khác nhau để
rèn luyện kĩ xảo cho trẻ.
– Lao động và trò chơi
Lao động của trẻ mầm non gắn liền với trò chơi. Mối liên hệ qua lại này thể hiện ở các hình thức
khác nhau: hành động của trẻ trong trò chơi thường nhằm mô tả lại quá trình lao động của người lớn,
các yếu tố của hành động lao động được thể hiện trong trò chơi, hoạt động lao động phục vụ cho trò
chơi. Song lao động và trò chơi là hai hoạt động khác nhau và có đặc trưng riêng.
Tính chất, nội dung, nguyên nhân xuất hiện hoặc động cơ của lao động và trò chơi khác nhau.
Trong quá trình lao động bao giờ cũng phải đặt ra mục đích, tìm phương tiện và tiến trình hành động
để đi đến kết quả. Còn trò chơi không đem lại kết quả rõ rệt nhưng làm cho trẻ thích thú, thỏa mãn, bởi
trong khi chơi trẻ không quan tâm đến kết quả của trồ chơi. Do đó trò chơi có thể kết thúc trong mọi
giai đoạn phát triển của nó nhưng lao động bao giờ cũng có kết quả cuối cùng đó là ý nghĩa cơ bản của
nó.
2.5.2. Lao động và việc hình thành đạo đức.
Học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin đánh giá rất cao vai trò của lao động. Các ông cho rằng
lao động sản xuất là lao động của con người, lao động sản xuất đã sáng tạo ra xã hội loài người và góp
phần to lớn vào sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Trẻ mầm non tuy chưa có khả năng lao
động như người lớn nhưng ở trẻ cũng đã xuất hiện những mầm mống của hoạt động lao động. Lao
động của trẻ mầm non được hiểu là những hình thức hoạt động đơn giản nhằm tự phục vụ bản thân
mình, nhằm giữ gìn lớp học ngăn nắp, sân trường sạch sẽ và tạo ra những sản phẩm, đồ chơi đơn giản
phục vụ cho mọi hoạt động trong cuộc sống hằng ngày của trẻ. Như vậy mục đích lao động của trẻ
mầm non không cao như của người lớn. Trẻ lao động là để tự phục vụ bản thân mình, là để thỏa mãn
nhu cầu muốn làm người lớn. Chúng ta thường thấy trẻ tuổi mẫu giáo rất quan tâm đến lao động của
người lớn, trong trò chơi, trong sinh hoạt trẻ muốn bắt chước người lớn và tự mình làm việc gì đó.
Đến 6 tuổi trẻ dễ dàng nắm các kĩ năng lao động đơn giản trong việc tự phục vụ, giữ gìn sạch sẽ ngăn
nắp trường lớp, nhà cửa và chăm sóc cây cỏ như: quét nhà, xếp gọn giường ngủ, kê bàn ăn, dọn góc
thiên nhiên …
Cũng giống như các hoạt động khác lao động ở tuổi mầm non có tác động sâu sắc đến thế hệ trẻ
và đến việc hình thành đời sống cá nhân. Nhờ hoạt động lao động mà trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức
khác nhau về lao động, về các vật liệu và dụng cụ, về tính chất của quá trình hoạt động cũng như vai
trò của lao động trong đời sống con người từ đó trẻ hiểu những người cần cù chăm chỉ lao động sẽ
được sống hạnh phúc còn những kẻ lười biếng trốn lao động sẽ sống rất khó khăn. Nói đến khía cạnh
này A.X.Macarenco có viết: “Lao động không những có ý nghĩa sản xuất xã hội, mà còn có ý nghĩa to
lớn trong đời sống cá nhân. Chúng ta điều biết rõ, những người biết làm nhiều việc, những người về
mọi mặt điều làm rất kết quả và có thành tích, những người không chút lúng túng trong bất cứ hoàn
cảnh nào, những người biết quản lí các đồ vật và điều khiển các đồ vật có thể sống rất sung sướng và
hạnh phúc. Ngược lại, những người luôn chịu bó tay trước mọi chuyện cỏn con, người không biết tự
mình phục vụ cho mình, mà luôn luôn lúc thì cần cô bảo mẫu, lúc thì cần sự phục vụ của bạn bè, lúc
thì cần giúp đỡ và nếu như không có ai giúp đỡ thì sẽ sống rất khó khăn, lúng túng, vụn về những
người như thế thường làm cho chúng ta thương hại” (A.X.Mạcarenco. tuyển tập. Nhà xuất bản giáo
dục 1946 trang 271). Rõ ràng A.X.Macarenco tuyệt đối đề cao vai trò của lao động không những đối
với đời sống của cá nhân mà còn đối với sự phát triển toàn diện của cá nhân. Nói đến phát tiến toàn
diện là nói đến sự phát triển của 4 mặt “Trí, đức, thể, mĩ”. Bất cứ một hoạt động nào ở tuổi mầm non
cũng nhằm mục đích là phát triển 4 mặt trên. Hoạt động lao động cũng không nằm ngoài mục đích
này. Trong khi lao động đứa trẻ sẽ được phát triển về “Trí, đức, thể, mĩ”. Đây là tiêu chuẩn mà xã hội
đặt ra cho con người trong thế kỉ 21 nó cũng chính là mục tiêu mà ngành giáo dục mầm non hướng tới
trong thế kỉ mới: thế kỉ của công nghệ thông tin và nhiều ngành khoa học tiên tiến. Quả thật chính nhờ
có hoạt động lao động mà trẻ trở nên khỏe mạnh, cơ thể tăng trưởng tốt, có sức đề kháng cao để kháng
lại mọi bệnh tật. Trong thời gian lao động, tất cả các quá trình như: hô hấp, tuần hoàn máu, quá trình
trao đổi chất đều được tăng cường. Đồng thời hoạt động lao động thực hành làm giảm bớt sự mệt mỏi
của trẻ khi áp lực học tập ngày một tăng cao. Bên cạnh đó trong quá trình lao động, lúc trực tiếp sử
dụng chế tạo các vật bằng các vật liệu khác nhau thông qua các phương pháp đơn giản nhất trẻ nắm
được tính chất các vật liệu và nhiều tri thức mới. Việc vận dụng vào thực tế các kiến thức đã học giúp
những kiến thức trở nên cụ thể, sống động, bền vững hơn về thế giới xung quanh. Điều này làm cho trí
tuệ của trẻ được củng cố và phát triển cao hơn.
Hoạt động lao động của trẻ mầm non bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tạo hình. Trong quá
trình lao động trẻ tập sáng tạo ra cái đẹp, tập phân biệt cái thô kệch với cái xù xì. Điều này giúp trẻ
nhận diện chính xác cái đẹp, gia tăng lòng yêu mến cái đẹp trong trẻ. Như vậy lao động không chỉ làm
phát triển thể lực, trí tuệ cho trẻ mà nó còn góp phần quan trọng vào việc phát triển xúc cảm, tình cảm
thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non. Trong khi lao động ngoài việc tạo ra cái đẹp còn đòi hỏi các động
tác và từng vận động của trẻ phải có trật tự chính xác hợp lí, mà tính chính xác hợp lí lại là một trong
những cơ sở của mĩ dục. Trẻ tham gia lao động sẽ được cô hình thành cho tính nhịp nhàng đều đặn và
uyển chuyển của vận động nghĩa là hình thành vẻ đẹp của động tác lao động. Những yếu tố thẩm mĩ
và sự đánh giá về phương diện thẩm mĩ tính chất và kết quả của lao động đẩy mạnh việc nâng cao văn
hóa lao động.
Trong 4 mặt của quá trình phát triển toàn diện, có lẽ hoạt động lao động sẽ chi phối nhiều nhất
đến việc hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức cho trẻ. Hay noi đúng hơn trong công tác
giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non người ta sử dụng lao động như là một phương tiện giáo dục
đạo đức quan trọng.
Quá trình lao động đảm bảo việc hình thành những phẩm chất đạo đức như: lòng yêu lao động,
sẵn sàng lao động không chỉ cho mình, cho người thân, mà còn cho xã hội, cho tổ quốc. Trong quá
trình lao động, dưới sự hướng dẫn của người lớn trẻ hình thành được tính mục đích, tính kiên trì, tính
độc lập, năng lực cố gắng lao động, và óc sáng tạo. Hình thức lao động trong tự nhiên là một trong
những hình thức lao động có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành các đặc tính trên cho trẻ. Lao
động trong tự nhiên góp phần phát triển óc quan sát, tính ham học, giáo dục trẻ hứng thú lao động
nông nghiệp, kính trọng người lao động và khơi gợi lòng yêu thiên nhiên ở trẻ. Khi lao động ở vườn
trường hay ở góc thiên nhiên ngoài việc có được những kỉ xảo thực hành đơn giản nhất để sử dụng các
nông cụ, nắm được cách thức chăm sóc cây trồng, hiểu biết nhiều về sự sinh trưởng và phát triển của
cây trẻ còn cảm thấy hứng thú với lao động. Bởi không những trẻ được trực tiếp cầm cuốc, cầm
xẻng(những dụng cụ này phải phù hợp với trẻ) để đào xới đất mà còn được tận mắt nhìn thấy thành
quả lao động của mình. Cây cối ở góc thiên nhiên trở nên xanh tươi hơn hay lớp học có thêm một cây
mới do chính trẻ trồng sẽ làm trẻ thích thú hơn, hãnh diện hơn vì chính việc làm trên đã góp phần làm
cho thiên nhiên xung quanh trẻ phong phú đa dạng và tốt tươi. Như vậy có thể khẳng định hứng thú
đối với lao động của trẻ sẽ được tăng lên rất nhiều nếu trẻ trực tiếp tham gia vào đó, dù là ít, trẻ vui
sướng vì được tham gia lao động, nhìn thấy kết quả lao động của mình, sau này trẻ sẽ lao động tự giác
để thực hiện những nhiệm vụ nhỏ ở nhà và ở trường. Không phải chỉ có hình thức lao động trong thiên
nhiên mới hình thành hứng thú lao động cho trẻ mà trong thực tế mọi hình thức lao động có thể có ở
lứa tuổi mầm non đều thực hiện được vấn đề này. Tận mắt nhìn thấy những sản phẩm tạo hình, những
đồ chơi đơn giản hay tận mắt nhìn thấy lớp học gọn gàng hơn sau khi tham cùng các bạn thu dọn cũng
làm tre hãnh diện và cảm thấy thích thú với hoạt động lao động. Những thành quả của lao động trong
thiên nhiên còn có tác dựng hình thành cho trẻ tính kiên trì, nhẫn nại, một đức tính không thể thiếu ở
con người năng động sáng tạo của thế kỉ 21. Chúng ta biết rằng thành quả lao động trong thiên nhiên
khác với thành quả của các dạng lao động khác ở chỗ những thành quả này không có ngay sau quá
trình trẻ lao động mà phải trải qua một thời gian dài trẻ mới đạt được kết quả chẳng hạn khi tham gia
tưới nước cho cây trẻ không thấy được vẻ tươi tốt của cây ngay mà qua một, hai tuần trẻ mới nhận
thấy điều đó. Rõ ràng phải mất một thời gian dài trẻ mới đạt được mục đích, nhưng để đạt được mục
đích này trẻ phải nỗ lực kiên trì làm việc tỉ mỉ hằng ngày. Đây là điều kiện tốt để giáo dục cho trẻ tính
kiên trì nhẫn nại.
Cùng với hình thức lao động trong thiên nhiên, hình thức lao động thủ công làm đồ chơi và đồ
dùng cũng là phương tiện giúp hình thành các phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho trẻ mầm non. Lao động
làm vật dụng lúc đầu do giáo viên hướng dẫn sau đó trẻ tự làm có tác dụng rèn luyện phát triển khả
năng đạt mục đích, kiên trì đạt mục đích, khắc phục khó khăn của trẻ. Trẻ tập vạch ra những biện pháp
thực hiện mục đích đặt ra, suy nghĩ về trình tự công việc, cách xử lí và cách gắn các vật liệu.
Hoạt động lao động thường được tiến hành trong tập thể đó là điều kiện để hình thành những
quan hệ tập thể cho trẻ như: tinh thần tương trợ, niềm vui vì thành công của tập thể, sự thông cảm đối
với bạn bè khi họ thất bại, và tinh thần sẩn sàng giúp đỡ họ… Quan sát hoạt động cùng nhau nhặt lá
bàng dưới sân trường của một nhóm trẻ lớp chồi ở trường mầm non bán công Tuổi Thơ 7 ta sẽ thấy rõ
điều này.
Một buổi sáng cô giáo My dẫn trẻ ra sân và nói “Hôm nay chúng ta cùng nhau nhặt tất cả những
lá bàng ở sân trường nhé”. Rồi trẻ bắt đầu nhặt. Bé gái thì nhặt lá cho vào sọt còn bé trai thì mang
những sọt đó đến khu đổ rác của trường. Chúng làm việc với nhau rất vui vẻ, có lúc sọt lá quá đầy hai
trẻ không thể khiêng nổi, cô gợi ý cho vài trẻ đến giúp bạn. Những đứa trẻ được cô gợi ý tranh nhau
chạy đến giúp bạn thế là tinh thần giúp đỡ mọi người được hình thành trong trẻ, không những thế quan
hệ bạn bè của trẻ cũng được cũng cố. Hai đứa trẻ được giúp đỡ cảm thấy yêu các bạn hơn, còn những
đứa trẻ kia cảm thấy tự hào về hành động của mình. Khi đã nhặt hết lá bàng trên sân trường chúng tự
hào khoe với nhau “sân sạch đẹp là do con gái chúng tớ đã nhặt hết lá trên sân, còn bọn con trai chúng
tớ đã mang chúng đến khu đổ rác của trường đó”. Những lời nói trên cùng với vẻ mặt hớn hở của trẻ
chứng tỏ chúng rất hãnh diện về thành quả lao động của mình đồng thời hiểu rõ hơn lợi ích mà lao
động mang đến cho xã hội loài người từ đó hình thành cho trẻ lòng kính trọng và yêu quí đối với
những người lao động, căm ghét những kẻ cố tình trốn tránh lao động, tìm cách lợi dụng lao động của
người khác phục vụ lợi ích riêng của mình.
Ở trường mầm non ngoài tham gia lao động với bạn trẻ còn có thể tham gia lao động cùng cô.
Lao động cùng cô giúp làm sáng tỏ những khái niệm của trẻ, kích thích tính ham học, quan tâm đến
hoạt động của người lớn rèn luyện thái độ lao động đúng, ý thức tôn trọng lao động. Điều gì đã thu hút
trẻ tham gia vào công việc chung với người lớn, điều gì thúc đẩy trẻ bắt chước lao động của người lớn
? Người lớn làm việc khéo léo và nhanh nhẹn sẽ làm trẻ thích thú và khâm phục. Các cháu trầm trồ ”
các bác biết làm mọi thứ”. Trước mắt trẻ là những thay đổi kì diệu : tấm kính dần dần sáng bóng, chiếc
ghế, chiếc xe bị hỏng trong đôi tay khéo léo lại trở thành mới mẻ. (8) Người lớn làm ra những đồ chơi
hấp dẫn còn trẻ mong muốn nắm được kĩ năng này. Lao động chung sẽ hiệu quả hơn vì tính vụng về
của trẻ được đổi tay khéo léo của cô tạo ra các sản phẩm không kém phần đẹp mắt. Trẻ phấn khởi vì
đạt kết quả tốt từ đó có thái độ lao động tốt và có nguyện vọng lao động. Lao động với người lớn giúp
trẻ khắc phục khó khăn làm trẻ thêm tin tưởng vào sức mình. Rõ ràng lao động chung cùng người lớn
ảnh hưởng nhiều đến quá trình hình thành đạo đức cho trẻ. Do đó người lớn cần lao động có văn hóa
trước mặt trẻ, chẳng hạn trong lúc tưới cây ở góc thiên nhiên đứa trẻ chỉ biết múc nước vào bình, rồi
mang đến tưới vào các gốc cây, chúng không cần biết đối với những loại cây này phải tưới một lượng
nước bao nhiêu là đủ, chúng cũng không hề để ý đến cách lấy nước vào bình như thế nào để khi di
chuyển không bị đổ ra ngoài. Nhưng khi quan sát cô làm công việc đó trẻ thấy cô không múc nước
đầy vào bình tưới như trẻ mà chỉ múc khoang 2/3 bình rồi mang đến tưới vào các cây ở góc thiên
nhiên, thao tác tưới cây của cô cũng khác trẻ, cô tưới nhanh qua các ngọn cây một lần sau đó tưới vào
từng gốc cây, những cây thân to cô tưới nước nhiều hơn những cây thân nhỏ và khi tưới xong cô mang
bình cất vào chỗ cũ. Nhìn góc thiên nhiên khô ráo sạch sẽ và tất cả cây đều xanh tốt mượt mà hơn sau
khi tưới, trẻ nhận thấy cách làm của cô so với chúng gọn gàng hơn, có trình tự và có hiệu quả hơn vậy
là trẻ nhanh chóng tiếp thu cách làm có văn hóa của cô. Người lớn cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để
lôi cuốn trẻ tham gia vào quá trình lao động bằng cách giao cho trẻ những nhiệm vụ vừa sức và bước
đầu hợp tác với trẻ. Ví dụ cô có thể giao cho trẻ một số nhiệm vụ trong các hoạt động lao động sau :
– Thu dọn phòng ngủ: cô thu dọn nệm và khăn trãi giường, trẻ mang gối đi cất và xếp giường lại
(hai cháu mang một cái hoặc kéo lê trên sàn)
– Thu dọn sau bữa ăn trưa: cô cùng trẻ mang tất cả chén bát từ trên lớp xuống nhà bếp
– Chuẩn bị giờ tạo hình : cô pha màu, quấy hồ, gọt bút chì, trẻ cắt giấy đổ hồ và bột màu vào đĩa
– Lao động trong sân trường: cô bắt sâu cho cây, trẻ nhặt lá vàng và tưới nước còn nhiều và nhiều
hình thức lao động khác nữa. Khi chọn các hình thức lao động để phối hợp giữa người lớn và trẻ
cần tuân thủ các nguyên tắc : lao động phải thật tự nhiên, cần thiết và có ý nghĩa đối với trẻ, nó
phải phù hợp về mặt giáo dục và vệ sinh, trong đó hoạt động chung với sự phân công chức năng
giữa -trẻ và người lớn phải được thực hiện một cách dễ dàng và tự nhiên.
Thông qua lao động trẻ còn được giáo dục về ý thức gọn gàng và ý thức tôn trọng kết quả lao
động của con người. Việc giáo dục trẻ ý thức giữ gìn mọi vật: giữ gìn quần áo giày dép sạch sẽ, sửa
chữa đồ chơi …cùng với việc nhấn mạnh giữ gìn quần áo giày dép sạch sẽ là để tỏ lòng biết ơn cha mẹ
đã mua những thứ này của cô sẽ giúp hình thành ở trẻ các yếu tố trên.
Tóm lại thông qua lao động nhiều chuẩn mực đạo đức sẽ được hình thành trong trẻ. Nếu sử
dụng tốt phương tiện này sẽ góp phần rất lớn vào công tác giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non.
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ SỬ DỤNG CÁC
PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG MẦM NON
Ở các trường mầm non hiện nay ít nhiều đã chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm
non. Đội ngũ giáo viên đã nhận ra vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách trẻ. Qua thăm dò 55 giáo viên của ba trường mầm non Tuổi Thơ 7 – Quận 3 & Măng Non 1
– Quận l0 và mẫu giáo thực nghiệm TW 3 thì 100% giáo viên đều cho rằng những khái niệm đạo đức
tốt xấu, hiền ngoan và những chuẩn mực đạo đức về lòng nhân ái, tình bạn bè, tình cảm gia đình, tình
yêu lao động V.V…. thật sự là cơ sở tốt cho nhân cách trẻ hình thành và phát triển. Từ sự nhìn nhận đó
nên mọi hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường mầm non được giáo viên sử dụng như là một phương
tiện có hiệu quả để giáo dục đạo đức cho trẻ . Giờ học, giờ chơi, giờ lao động ở lớp, ở sân trường đều
là những phương tiện mà giáo viên ở các trường Mầm non hiện nay đã sử dụng để giáo dục đạo đức
cho trẻ từ 0 đến 6 tuổi.
Sau khi dự giờ quan sát 04 giờ học của trẻ các lứa tuổi (cơm thường, mầm, chồi, lá ở trường
Mầm non Bán công Tuổi Thơ 7 – Quận 3 & Măng Non 1 -Quận 10 chúng tôi thấy rằng trong giờ học
nhất là những giờ làm quen với tác phẩm văn học thì việc giáo dục đạo đức cho trẻ được cô phát huy
một cách tối đa. Nói đúng hơn, giáo viên mầm non đã sử dụng có hiệu quả những giờ học này để giáo
dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non. Đầu giờ học, cô đặt ra yêu cầu của giờ học cho trẻ : “Con phải
ngồi ngoan, muốn phát biểu phải giơ tay, khi trả lời câu hỏi của cô phải thưa cô …” là để giáo dục cho
trẻ tính trật tự, kỉ luật, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy. Bên cạnh đó, còn giáo dục cho trẻ thói quen
nói năng lễ phép, biết thưa gửi khi trả lời. Với cách làm này hầu hết trẻ đều trật tự khi học, biết giơ tay
khi muốn phát biểu, biết thưa gửi khi trả lời câu hỏi của cô. Những trẻ nào chưa thực hiện tốt các yêu
cầu đó giáo viên nhắc nhở và chỉnh sửa ngay.
Ngoài việc đặt ra yêu cầu trong giờ học giáo viên còn sử dụng ngay chính nội dung của tác
phẩm để giáo dục những bài học đạo đức cho trẻ. Bằng hệ thống câu hỏi xoay quanh nội dụng tác
phẩm giáo viên thật sự đã trang bị cho trẻ những khái niệm và chuẩn mực đạo đức cần thiết ở lứa tuổi
mầm non. Cụ thể giờ dạy trẻ làm quen với bài thơ “Bác Hồ của em” ở lớp chồi B với hệ thống câu hỏi:
– Ngày 19/05 là ngày gì ? (Trẻ trả lời: Thưa cô, ngày sinh nhật Bác)
– Khi các con ra đời có còn Bác không ? (Trẻ trả lời: Thưa cô, không)
– Ai biết gì về Bác Hồ ? ( Trẻ trả lời: Thưa cô, Bác Hồ là người hướng dẫn các chú bộ đội
đánh giặc cứu nước, Bác là người rất yêu mến các bạn thiếu nhi.)
– Bài thơ nói về điều gì ? (Trẻ trả lời : Thưa cô, bài thơ nói về tình cảm của các bạn nhỏ
đối với Bác)
– Các cháu có yêu Bác Hồ không ? (Trẻ trả lời: Thưa cô, có ạ!)
Với hệ thống câu hỏi trên, cô đã cung cấp cho trẻ những hiểu biết về Bác cũng như tình cảm của
mọi người đối với Bác. Qua đó, giáo dục trẻ lòng kính yêu Bác Hồ, kính yêu lãnh tụ và những người
đã có công dựng nước, giữ nước. Đây là mầm móng của lòng yêu quê hương đất nước sau này.
Có thể nói ở các trường mầm non hiện nay đều sử dụng tác phẩm văn học như là một phương
tiện giáo dục đạo đức cho trẻ. Ở trường mầm non phương tiện này được tổ chức dưới nhiều hình thức
khác nhau như: Cô đọc trực tiếp cho trẻ nghe sau đó đàm thoại cùng trẻ, trẻ tập hoa thân vào các nhân
vật và diễn lại toàn bộ hay một đoạn nào đó của tác phẩm hoặc cũng có thể trẻ tập kể lại toàn bộ tác
phẩm. Mặc dù được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng kết quả giáo dục đạo đức thu được
từ những hình thức ấy là tương đối cao, hầu hết trẻ đều lĩnh hội được những bài học đạo đức sâu sắc từ
những hình thức trên (lấy từ kết quả quan sát 4 giờ học của trẻ các lứa tuổi).
Cùng với giờ học thì giờ hoạt động vui chơi của trẻ cũng được giáo viên ở các trường mầm non
thường xuyên sử dụng để giáo dục cho trẻ những nét tính cách: thật thà, ngăn nắp, lễ phép những
phẩm chất đạo đức: lòng nhãn ái, tinh thần đoàn kết, cư xử có văn hoa đối với mọi người… Qua thăm
dò trao với một số giáo viên hiện đang dạy ở các trường mầm non, hầu hết họ đều cho rằng việc giáo
dục đạo đức cho trẻ trong giờ chơi cũng thu được kết quả cao. Trong khi chơi trẻ được tự do thể hiện
những gì nó biết, được tự do hoạt động theo ý nó hay nói đúng hơn khi chơi trẻ sẽ thể hiện rõ tính cách
và phẩm chất của bản thân mình. Nếu quan sát kĩ giáo viên sẽ dễ dàng nhận ra tính cách của trẻ đồng
thời dễ phát hiện ra những hành vi thái độ đi lệch chuẩn ở trẻ và kịp thời uốn nắn sửa chữa cho trẻ. (
Trích một giờ hoạt động vui chơi ở góc bán hàng của trẻ lớp chồi C) chúng ta thấy Phương Nghi đóng
vai bán hàng và hỏi:
– Muốn mua gì?
– Mạnh Hiệp: Tôi muốn mua một dĩa bánh bao, một trái thơm và một dĩa trái
cây
– Phương Nghi: nè, đưa tiền đây!
– Mạnh Hiệp : Gởi chị 20.000 đồng
– Phương Nghi: Tiền rách không xài được, đổi tờ khác đi!
Qua lời đối thoại của người bán hàng Phương Nghi và người mua hàng Mạnh Hiệp thì rõ ràng bé
Phương Nghi chưa thể hiện đúng hành vi thái độ của người bán hàng. Bé hay nói trống không và luôn
ra lệnh với khác hàng. Điều này trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Quan sát hai trẻ chơi, lúc này
cô giáo mới giả đóng vai người mua hàng và đến cửa hàng của Phương Nghi để mua.
– Cô giáo: Xin chào chị. Chị vui lòng bán cho tôi một cân cá, một cân cải
– Phương Nghi: Nè, đưa tiền đây
– Cô giáo: Tôi vừa mua hoa ở cửa hàng hoa. Ở đó chị bán hàng không nói “nè đưa tiền đây” như
chị mà khi đưa hàng cho khách họ bảo “đây tôi xin gởi chị” . Mọi khách đến cửa hàng hoa đều
khen người bán hàng lịch sự và đến mua rất đông. Chị có muốn nhiều người đến mua hàng
như ở cửa hàng hoa không?
– Phương Nghi: Muốn ạ
– Cô giáo: Vậy thì chị phải nói nhẹ nhàng với khách hàng. Nhận tiền của khách phải biết cám
ơn. Như vậy mới có nhiều người đến của hàng của chị để mua.
Sau khi nghe cô giáo nói vậy chúng tôi quan sát thấy bé Phương Nghi thay đổi thái độ hành vi
đối với khách hàng. Bé đã biết hỏi khách cần mua gì để mình giúp, đã biết cảm ơn khách khi nhận
tiền. Bằng cách hoa thân vào vai chơi với trẻ cô giáo đã kịp thời uốn nắn sửa chữa có hiệu quả những
hành vi đi lệch chuẩn đồng thời giáo dục trẻ thái độ cư xử, lịch sự nhã nhặn đối với mọi người xung
quanh. Điều này chứng tỏ trong thực tế trò chơi đã được giáo viên mầm non sử dụng có hiệu quả trong
việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Giáo viên không trực tiếp uốn nắn, truyền thụ những bài học đạo đức
mà bằng hình thức tham gia chơi cùng trẻ, giáo viên lấy tư cách là một thành viên của trò chơi để nhận
xét đánh gia thái độ hành vi của trẻ. Điều này giúp trẻ dễ chấp nhận khuyết điểm đồng thời nhanh
chóng điều chỉnh thái độ hành vi của mình để tiếp tục được chơi.
Ngoài ra, chúng tôi cũng thực hiện khảo sát với 55 cha mẹ trẻ mẫu giáo qua phiếu điều tra và
nhận thấy các bậc cha mẹ có những hiểu biết nhất định về lao động của con mình, về vai trò của lao
động đối với việc hình thành các phẩm chất đạo đức, ví dụ cho trẻ tham gia vào các công việc nhà,
giúp trẻ tự lập, yêu quý và giữ gìn thành quả lao động, kiên nhẫn, chăm chỉ, sáng ý, ngăn nắp và biết
sắp xếp công việc hợp lý v.v… Cha mẹ trẻ cũng ghi nhận, trẻ thích thú được tham gia giúp đỡ cha mẹ,
thích được dẹp bàn ăn, lặt rau, xếp áo quần, thích được phụ mẹ xách đồ đi chợ về, cảm thấy trưởng
thành khi được cha mẹ khen.
Một thái độ yêu thích tham gia vào lao động của người lớn cũng được các cô giáo mầm non ghi
nhận qua 55 phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên mầm non về ảnh hưởng của lao động đối với việc
hình thành và phát triển đạo đức của trẻ.
Ở lớp trẻ hăng hái phụ cô chuẩn bị giờ chơi, giờ học, phát học cụ cho các bạn, dọn chén bát
trước và sau khi ăn, trực nhật lớp, lau lá cây, tưới cây, xách đồ chơi lên giá, lên kệ v.v… Các cô cho
rằng lao động đơn giản và vừa sức với trẻ giúp trẻ biết sắp xếp công việc hợp lý, tự tin, có tính kí luật
cao …Các cô còn quan sát thấy trẻ rất nhiệt tình, tự hào khi được cô giao việc, chứng tỏ đặc điểm của
trẻ là thích được làm việc và lấy chúng là cơ sở để chúng ta giáo dục thái độ lao động cho trẻ em.
KẾT LUẬN
1. MỘT SỐ KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, qua phân tích tổng hợp tài liệu và quan sát thăm dò thực tế
việc sử dụng các phương tiện giáo dục đạo đức ở các trường mầm non hiện nay cho phép chúng tôi rút
ra một số kết luận sau:
• Đạo đức là hạt nhân cơ bản của nhân cách con người. Những phẩm chất hành vi đạo đức
quyết định sự trường thành của một con người thực thụ. Chính vì thế việc giáo dục trẻ
trở thành người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ đang là mục tiêu giáo dục mà xã
hội đặt ra cho các bậc học kể cả bậc giáo dục mầm non – giai đoạn đầu tiên hình thành
nhân cách con người.
• Có thể khẳng định trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ thì các phương tiện trò chơi,
truyện kể thơ ca, giao tiếp, lao động là những công cụ tác động rất tích cực đến trẻ. Dưới
sự tác động của những phương tiện này, được sự hướng dẫn của người lớn đứa trẻ đã
lĩnh hội được các khái niệm đạo đức đầu tiên đơn giản nhất.
• Các phương tiện này cần sử dụng kết hợp với nhau thì mới thu được kết quả tốt bởi các
phẩm chất hành vi đạo đức không chỉ hình thành trong một hoạt động mà nó được hình
thành trong mọi hoạt động hằng ngày của trẻ.
• Các phẩm chất đạo đức của trẻ sẽ được hình thành và tồn tại bền vững đồng thời việc sử
dụng các phương tiện cũng sẽ phát huy kết quả tối đa nếu người lớn biết kết hợp chúng
mọi lúc mọi nơi, kết hợp với gia đình và cha mẹ trẻ.
2. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Sau khi nghiên cứu lí luận và quan sát thăm dò thực tế vai trò của chúng đối với việc giáo dục
đạo đức cho trẻ mầm non cũng như thực trạng sử dụng các phương tiện này vào việc giáo dục đạo đức
cho trẻ ở các trường mầm non hiện nay chúng tôi xin đề xuất một sô ý kiến nhằm giải quyết vân đề
trên:
• Để mọi người thấy rõ vai trò quan trọng của việc giáo dục đạo đức đồng thời hiểu rõ hơn về
vai trò của một số phương tiện giáo dục đạo đức cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng
về nội dung, nhiệm vụ giáo dục đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức đối vời sự
phát triển nhân cách của trẻ mầm non cho tất cả mọi người trong xã hội; từ cha mẹ trẻ đến giáo
viên mầm non – những người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ trong độ tuổi từ 0 -6 tuổi.
• Được trực tiếp tham gia vào mọi hoạt động là điều kiện tốt để các phẩm chất đạo đức hình
thành. Vì thế, trong qua trình giáo dục đạo đức cho trẻ, người lớn cần tạo môi trường hoạt
động sao cho có thể kích thích trẻ tham gia tích cực vào đó. Ở trường mầm non, bằng những
lời động viên, khen ngợi cô cần kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động ở lớp như: lao động
tự phục vụ, trật nhật, chăm sóc cây cối… Ở nhà cha mẹ cần tạo điều kiện cho trẻ được làm
những việc vừa sức.
• Ngoài ra trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ thì việc đẩy mạnh công tác phối hợp giáo
dục giữa gia đình nhà trường và xã hội, tăng cường các buổi trò chuyện trao đổi giữa phụ
huynh và nhà trường, chú trọng xây dựng các góc thông tin ở trường lớp sẽ là cầu nối vững
chắc để nhà trường và gia đình phối hợp với nhau trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Thanh Âm – Giáo dục học mầm non – Trường Đại học Sư phạm HN.
2. M.K. Bogoliupxkaia & v.v Septsenco (Lê Đức Mẩn dịch) – Đọc và kể chuyện văn học ở vườn
trẻ – NXB Giáo dục 1978.
3. Vũ Minh Hồng,Trương Kim Oanh & Phan Huỳnh Hoa – Trò chơi học tập -NXB Giáo dục 1982.
4. AI Xarokina- Giáo dục học mẫu giáo – NXB Giáo dục 1977.
5. Iacopxơn (sách dịch) – Đời sống tình cảm của học sinh – NXB Giáo dục 1978.
6. N.Kupxkaia – Giáo dục học mẫu giáo – NXB Giáo dục.
7. Valeria Mukhina (Trần Thanh Đạm dịch ) – Lớn lên thành người hay sự ra đời của nhân
cách – NXB Tiến bộ Moscova 1984.
8. Nhe-cha-e-va – Giáo dục trẻ mẫu giáo trong lao động – NXB Giáo dục 1979.
9. Nguyễn Thị Nhất -Thơ ca mẫugiáo – NXB Giáo dục 1976.
10. Trương Kim Oanh & Đỗ Mộng Liên – Những trò chơi lý thú và bổ ích -NXB Giáo dục 1987.
11. Nguyễn Ánh Tuyết – Giáo dục học – NXB Giáo dục.
12. Nguyễn Ánh Tuyết – Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non – NXB Giáo dục.
13. Nguyễn Thu Thủy – Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ – NXB Giáo dục 1986.
14. Lê Minh Thuận – Nhân cách và sự hình thành nhân cách ở lứa tuổi mẫu
giáo – NXB Giáo dục 1989.
15. Nguyễn Thị Thanh Hà – Phương pháp hướng dẫn trẻ 2 đến 3 tuổi chơi trò chơi phản ánh sinh
hoạt – Luận án Tiến sĩ KHGD, Hà Nội 2002.
16. Nguyễn Thị Hằng – Sự hình thành hành vi đạo đức ở trẻ mẫu giáo 5 đến 6 tuổi thống qua trò
chơi đóng vai theo chủ đề – Luận án Th.sĩ KHGD 1998.
17. P.G.Xamarucôva (Phạm Thị Phúc dịch) – Trò chơi trẻ em – Sở GD TP.HCM 1986
18. A.Ryscai (Vũ Thị Ẩn dịch) – Bài giảng về sự phát triển giao tiếp của trẻ với người lớn và bạn
cùng tuổi – Tạp chí Giáo dục học mẫu giáo số 2/3/1998.
19. Lê Xuân Họng – Giao tiếp con đường hình thành nhân cách cho trẻ – Tạp
chí Khoa học Giáo dục tháng 3/1995.
PHỤ LỤC
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CHA MẸ HỌC SINH
Xin chào Anh (Chị) !
Chúng tôi là nhóm sinh viên hiện đang nghiên cứu việc ảnh hưởng của hoạt động lao động đối
với việc hình thành đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non. Đê giúp chúng tôi có thể đánh giá đúng
ảnh hưởng của lao động đối với việc hình thành đạo đức cho trẻ.
Xin Anh (Chị) vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô trống mà Anh
(Chị) cho là cần thiết
1) Ở nhà Anh (Chị) có thường cho con phụ giúp những công việc nhà không?
□ Có
□ Không
2) Bé thường giúp Anh (Chị) những công việc nào dưới đây ?
□ Xếp quần áo
□ xếp giày dép
□ Dọn cơm
□ Quét nhà
□ Bỏ quần áo vào máy giặt
□ Những công việc khác ……………………………………………………………………
3) Ý thức của trẻ khi làm những công việc này ?
□ Tự giác
□ Khi người lớn yêu cầu
4) Theo Anh (Chị) tham gia làm việc cùng người lớn giúp hình thành và phát triển những nét
tính cách nào ở trẻ?
5) Cháu có thích được làm không ? Cháu biểu hiện như thế nào?
6) Theo Anh (Chị) có nên cho trẻ làm việc nhà không? Vì sao?
Cảm ơn Anh (Chị)
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN MẦM NON VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA LAO ĐỘNG
ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CHUẨN ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ
Lao động là một trong những phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng. Để tìm hiểu ảnh hưởng của
lao động đến việc hình thành đạo đức, rất mong Chị đóng góp ý kiến của mìnhbằng cách đánh dâu X
vào ô trống mà Chị cho là cần thiết.
1) Ở trường mầm non hiện nay trẻ có thường tham gia lao động cùng cô không?
□ Có
□ Không
2) Ớ trường trẻ tham gia vào những hình thức lao động nào ?
3) Theo Chị lao động có vai trò như thế nào đối với việc hình thành các chuẩn đạo đức cho
trẻ ?
□ Quan trọng
□ Không quan trọng
4) Vì sao?
………….
.
5) Ý thức của trẻ khi tham gia lao động ở trường
□ Tự giác
□ Không tự giác
6) Theo Chị sử dụng phương tiện lao động để giáo dục đạo đức cho trẻ, sẽ giúp hình
thành ở trẻ những đức tính nào ?
□ Tinh thần tập thể
□ Tình bạn
□ Lòng yêu lao động
□ Tính mục đích
□ Tính kiên trì nhẫn nại
□ Thái độ trân trọng, bao vệ thành quả lao động
□ Các đức tính khác ( xin ghi rõ)
7) Các biểu hiện của trẻ khi lao động?
..
8) Hiện nay khỉ sử dụng phương tiện lao động để giáo dục đạo đức cho
trẻ Chị thường gặp những khó khăn gì ?
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Những phẩm chất đạo đức tốt sẽ được hình thành ở trẻ qua giờ làm quen với Tác Phẩm Văn Học ở
trường Mầm non.
Chơi xong phải biết dẹp đồ chơi chứ!
Tập cho bé làm nội trợ, giúp bé hiểu được lao động của bác cấp dưỡng
Giáo dục đạo đức cho trẻ qua lao động chăm sóc cây ở góc thiên nhiên
Tập cho bé tự xếp quần áo là giáo dục cho bé thói quen tự phục vụ
– 63 –
Em xin chân thành cảm ơn cô NGUYỀN THỊ THANH BÌNH đã tận tình hướng dẫn, giúp
nhiều ý kiến cho em hoàn thành luận văn này. m Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu cùng tập
thể giáo viên của trường Măng Non 1 – Quận 10 và trường Tuổi Thơ 7 – Quận 3, Mẫu giáo thực
nghiệm TW 3 đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình làm luận
văn.
Cũng nhân dịp này em xin chân thành cảm ơn quí thầy cô khoa GDMN đã tận tình hướng dẫn,
truyền thụ cho em những kiến thức vô cùng quí báu về ngành học này trong suốt 4 năm qua.
Thành Phố Hồ Chí Minh 2003
NGUYỄN THỊ ANH THƯ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_mot_so_phuong_tien_giao_duc_dao_duc_cho_tre_lua_tuoi_mam_non_3616.pdf