Lãnh tổ quốc tế là gì? Định nghĩa, cách hiểu

lãnh thổ không có ranh giới phân chia vùng, miền nhưng về pháp lý quốc tế, có sự phân biệt các loại lãnh thổ với quy chế pháp lý khác nhau trong đó bao gồm: Lãnh thổ quốc gia, lãnh thổ quốc tế, lãnh thổ có quy chế hỗn hợp, lãnh thổ quốc gia sử dụng quốc tế

Khái niệm Lãnh thổ quốc tế

Lãnh thổ là một trong các yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia vì đó là môi trường tự nhiên, là cơ sở vật chất cho sự tồn tại của từng quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Sự phân định lãnh thổ dựa trên cơ sở biên giới quốc gia. Về phương diện tự nhiên, lãnh thổ không có ranh giới phân chia vùng, miền nhưng về pháp lý quốc tế, có sự phân biệt các loại lãnh thổ với quy chế pháp lý khác nhau trong đó bao gồm: Lãnh thổ quốc gia, lãnh thổ quốc tế, lãnh thổ có quy chế hỗn hợp, lãnh thổ quốc gia sử dụng quốc tế.

Lãnh thổ quốc tế là những bộ phận lãnh thổ được sử dụng chung cho cả cộng động quốc tế như biển quốc tế, vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế, vùng trời quốc tế, vùng đáy biển quốc tế, khoảng không vũ trụ (kể cả Mặt trăng và các hành tinh) và Châu Nam cực.

Lãnh tổ quốc tế là vùng đất, vùng nước, vùng trời và lòng đất năm ngoài phạm vì quyền tài phán của quốc gia.

Lãnh thổ quốc tế gồm: Nam Cực, không phận quốc tế, biển quốc tế…

Việc khai thác, sử dụng lãnh thổ quốc tế phải tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế. Đối với lãnh thổ quốc tế, tất cả các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế đều có quyền bình đẳng sử dụng với mục đích hòa bình và phát triển. Nguyên tắc chung được ghi nhận tại các ngành luật của hệ thống luật quốc tế như Nguyên tắc tự do biển cả (trong Luật biển quốc tế); nguyên tắc tự do bay trong vùng trời quốc tế (Luật hàng không quốc tế); nguyên tắc vùng và di sản trên vùng là di sản chung của nhân loại; nguyên tắc tự do nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ (trong Luật vũ trụ quốc tế). Tính chất sở hữu quốc tế không chấp nhận việc bất cứ một quốc gia nào xác lập chủ quyền hoặc quyền chủ quyền của mình đối với bất kỳ một bộ phận nào của lãnh thổ quốc tế

Các nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong Luật quốc tế

“Thụ đắc lãnh thổ” là việc thiết lập ranh giới địa lý chủ quyền của một quốc gia đối với một vùng lãnh thổ mới theo những phương thức phù hợp với nguyên tắc của Pháp luật quốc tế. Là một chế định của luật pháp quốc tế, việc xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế. Vì vậy, việc thụ đắc lãnh thổ cũng phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù riêng của chế định “lãnh thổ”, không phải bất kỳ một sự thụ đắc lãnh thổ nào cũng đều phải tuân thủ tất cả các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế sau có liên quan trực tiếp tới vấn đề “thụ đắc lãnh thổ”.

a) Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia

Chủ quyền là thuộc tính chính trị pháp lý không thể tách rời của quốc gia bao gồm 2 nội dung chủ yếu: Quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong các quan hệ đối ngoại. Nguyên tắc này sẽ chi phối các quốc gia trong quá trình thụ đắc lãnh thổ.

b) Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực

Nguyên tắc này được hình thành trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và đã được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc. Thời gian đầu nguyên tắc này thể hiện mong muốn của các dân tộc trong việc thiết lập một trật tự quốc tế công bằng sau chiến tranh. Nghị quyết số 26/25 (1970) của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế đã quy định rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của việc thụ đắc bởi một quốc gia khác bằng việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Việc thụ đặc lãnh thổ bằng việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp”.

Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ quốc tế, việc sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế đã bị coi là bất hợp pháp thì nguyên tắc này được hiểu với nội hàm rộng hơn, đó là việc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ phi vũ trang. Định ước Henxinki năm 1975 quy định rằng, các quốc gia tham gia sẽ “khước từ sử dụng mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên khác, khước từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế”1. Như vậy, khái niệm vũ lực theo Luật Quốc tế hiện đại, đã được mở rộng để biểu hiện sử dụng cả các sức mạnh quân sự, kinh tế… hay đe dọa sử dụng các sức mạnh đó.

c) Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế

Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Nói cách khác, nguyên tắc này là hệ quả tất yếu của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, luật pháp quốc tế cũng ghì nhận một số biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp, song vào thời điểm đó nguyên tắc này chưa trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Ngày nay, với mục đích đảm bảo hòa bình, an ninh quốc tế và công lý, luật pháp quốc tế đã ghi nhận nguyên tắc này như là một trong những nguyên tắc cơ bản, nền tảng có tính xuyên suốt và bao trùm. Điều này được thể hiện rõ trong khoản 2, Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc; Phần XV Giải quyết các tranh chấp (Điều 279 – Điều 299) Công ước Luật Biển 1982 của Liên hợp quốc; Tuyên bố về Các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Liên hợp quốc; Tuyên bố về Cách ứng xử Biển Đông (DOC) và hầu hết các điều ước quốc tế đa phương cũng như song phương, điều ước quốc tế khu vực cũng như điều ước mang tính toàn cầu…

Hiến chương Liên hợp quốc, tại Điều 33 đã quy định: “Trong mỗi vụ tranh chấp… các đương sự phải tìm giải pháp, trước hết bằng con đường đàm phán, điều tra trung gian, hòa giải trọng tài, bằng con đường tư pháp, bằng việc sử dụng những cơ quan hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác…”. Như vậy, trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, ngoài việc sử dụng vai trò của Tổ chức ASEAN, Việt Nam và các quốc gia hữu quan vẫn có thể đưa vụ tranh chấp ra trước các cơ quan của Liên hợp quốc như: Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Tòa án công lý quốc tế hoặc Tòa án Luật Biển,… Nếu làm được như vậy, sẽ góp phần đưa vấn đề Biển Đông ra trước công luận và luật pháp quốc tế, làm phá sản âm mưu “phi quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông” của một vài quốc gia hiện nay.

d) Nguyên tắc dân tộc tự quyết

Ra đời trong thời kỳ cách mạng tư sản2, nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được thể hiện trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến chương Liên hợp quốc, Nghị định 1514 (XV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 14 – 12 – 1960; Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia năm 1970…

Khoa học pháp lý quốc tế hiện đại về thụ đắc lãnh thổ đã bác bỏ phương thức thụ đắc lãnh thổ như Xâm chiếm, khuất phục, chinh phạt… và lấy nguyên tắc “dân tộc tự quyết” – một trong những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế hiện đại, để làm cơ sở cho việc xem xét vấn đề thụ đắc lãnh thổ. Theo nguyên tắc này thì một sự thay đồi về lãnh thổ phải dựa trên ý chí của dân cư sinh sống trên những lãnh thổ đó. Đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử xác lập chủ quyền lãnh thổ nói riêng và sự phát triển của luật pháp quốc tế nói chung.

Tuy nhiên. theo giáo sư người Nga B.M Climeco: “Nguyên tắc dân lộc tự quyết không loại tự những phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ khác. Hơn thế nữa, trong khi thực hiện quyền dân tộc tự quyền, vẫn có thể sử dụng các phương thức đó như những phương thức bổ trợ”3.

Quan điểm trên của giáo sư Climeco là hoàn toàn có cơ sở và có thể áp dụng vào việc chọn lựa và sử dụng các phương thức thụ đắc lãnh thổ. Rõ ràng là trên thực tế không thể áp dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết trong mọi trường hợp được, nhất là đối với những vùng lãnh thổ như: Bắc cực, Nam cực, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, phần Đông Gronland. . .

Về những lãnh thổ nêu trên, nguyên tắc dân tộc tự quyết không thể áp dụng được, vì vậy các phương thức thụ đắc chủ quyền lãnh thổ khác vẫn có thể được xem xét sử dụng và được coi là hợp pháp.

e) Nguyên tắc chiếm hữu thật sự

Một trong những điều ước quốc tế về chiếm cứ lãnh thổ có ý nghĩa then chốt trong việc đánh giá tính hợp pháp của việc xác lập lãnh thổ là Định ước Berlin năm 1885.

Tại Hội nghị Berlin 1885, các nước thành viên đã thông qua một nghị quyết về châu Phi, trong nghị quyết có đưa ra nguyên tắc chiếm hữu thật sự, quốc gia được công nhận là chủ sở hữu vùng đất mới nếu ngoài việc phát hiện đầu tiên phải tiếp theo đó là các hành động thực tế;

+ Thông báo việc chiếm hữu cho các nước tham gia hiệp định;

+ Duy trì quyền lực một cách phù hợp trên lãnh thổ được chiếm hữu

Định ước chỉ có hiệu lực ở châu Phi và đối với các nước thành viên, nhưng đến năm l888, Viện Pháp luật quốc tế Lausanne đã ra tuyên bố khẳng định nguyên tắc này, làm cho nguyên tắc này trở nên chiếm ưu thế phổ biến trên thế giới và được thừa nhận chung. Mặc dù Hiệp ước Sant Germain năm 1919 về chấm dứt sự tồn tại đế quốc Hung và áo đã tuyên bố huỷ bỏ Định ước Berlin 1885 vì lý do trên thế giới không còn lãnh thô vô chủ nữa, nhưng nguyên tắc này vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn được các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Như vậy, việc thụ đắc đối với một vùng lãnh thổ bắt buộc phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế Có như vậy mới đảm bảo được hòa bình và an ninh thế giới.

Thụ đắc lãnh thổ theo thời điểm đòi hỏi thực hiện chủ quyền trên thực tế đối với một vùng lãnh thổ trong một thời gian tương đối dài. Tuy nhiên, luật pháp và thực tiễn quốc tế chưa có quy định về thời hạn chung cho các trường hợp xác lập chú quyền lãnh thổ bằng phương thức này. Luật pháp quốc tế hiện đại cũng không chấp nhận phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ theo thời hiệu khi các quốc gia sử dụng phương thức này để biện minh cho hành động xâm lược của mình.

Trên thực tế, đã có một số trường hợp một quốc gia sử dụng vũ lực để xâm chiếm những vùng lãnh thổ vốn thuộc chủ quyền của một quốc gia khác và thiết lập quyền kiểm soát trên đó rồi áp dụng phương thức thụ đắc lãnh thổ theo thời hiệu, lâu dần biến vùng lãnh thổ đó thành quốc gia của mình. Hành vi này được coi là sự chiếm đoạt lãnh thổ của quốc gia khác một cách bất hợp pháp. Và như vậy, hành vi đó đã cùng một lúc vi phạm cả hai nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong luật pháp quốc tế cũng như trong quan hệ quốc tế đó là: “Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực,” và “nguyên tắc bất khả xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia”.

g) Thụ đắc lãnh thổ do chiếm hữu

Là hành động của một quốc gia thiết lập và thực hiện quyền lực của mình trên một lãnh thổ vốn chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia nào khác hoặc một vùng lãnh thổ vốn đã có chủ sau đó bị bỏ rơi và trở lại trạng thái vô chủ ban đầu.