LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT | Trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật Việt Bắc

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT

[ 28/12/2016 | Lượt xem: 58398 ]

Lễ
hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ
lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm gần đây, trong
bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của nước ta, văn
hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền thống đã được phục hồi và
phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền trong
đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít các vấn đề nảy sinh khiến xã hội
cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để những mặt tinh hoa của lễ hội
cổ truyền được đẩy mạnh và phát huy, khắc phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và
bao giờ cũng thế, mọi hành động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi
chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó
trong đời sống xã hội đương đại mới mang lại hiệu quả mong muốn.

1. Nhận diện lễ hội truyền thống 

 

Lễ hội Chùa Hương

 

Lễ
hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi trội”
trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới “xử lý” các
mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra với những hình thức
và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu
dài của các tầng lớp người; thoả mãn những nhu cầu của các cá nhân và tập thể
trong môi trường mà họ sinh sống.

Môi trường của lễ hội
truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là
môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá truyền thống được bảo tồn và
phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn
thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong
lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ quả của cả quá trình lịch sử của
không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng
và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội
có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được
đáp ứng và thoả nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và
khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng
giai đoạn của lịch sử.

Hiện tại ở nước ta có
nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có Lễ hội mới, (lễ hội hiện
đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội sự kiện (gắn với
du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn thành lập thành
phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ truyền thống có số lượng nhiều nhất
(khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi phân bố rộng
(cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người ta
có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong năm, trong đó
quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân chia theo phạm vi
lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia. Phân loại theo tính chất
của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề buôn…), lễ hội tôn vinh anh
hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất nước, lễ hội gắn với các tôn
giáo tín ngưỡng cụ thể như lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngưỡng dân gian…

Lễ hội cổ truyền là
những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng
đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các
quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ, sự sinh tồn và các
quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Ví dụ, nếu người Việt và người Tày chưa thực hiện
nghi lễ “Hạ điền”, “Lồng tồng” thì việc gieo hạt đầu mùa sẽ không thể thực
hiện, đứa trẻ sinh ra nếu chưa được thực thi nghi lễ “thổi tai”, đặt tên thì nó
chưa thể trở thành con người, một chàng trai đến tuổi trưởng thành mà chưa trải
qua nghi lễ thành đinh, cấp sắc thì chưa thể trở thành một thành viên thực sự
của cộng đồng, một đôi nam nữ thanh niên chưa là lễ tơ hồng, lễ trình gia tiên
thì không thể trở thành vợ chồng, một người chết nếu chưa được thày Tào của
người Tày chưa đến thực hiện nghi lễ gọi hồn đưa hồn thì nghi lễ mai táng sẽ
không được thực thi. Do vậy, một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng mang tính chuyển
tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định.

Trong số hơn 7000 lễ hội
cổ truyền của nước ta, xét về nguồn cội đều là lễ hội nông nghiệp, quy mô ban
đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp
này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử (nhất là lịch
sử chống ngoại xâm), nội dung xã hội (nhất là các quan hệ cộng đồng), nội dung
văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng như ngày nay.

So với các loại lễ hội
khác, lễ hội cổ truyền mang 3 đặc trưng cơ bản sau:

– Lễ hội cổ truyền gắn
với đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, nó mang
tính thiêng, do vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập
với đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt, trình diễn trong lễ hội
nhìn bề ngoài là trần tục, như các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn
xướng mang tính phồn thực, nên nó mang tính “tục”, nhưng lại là cái trần tục
mang tính phong tục, nên nó vẫn thuộc về cái thiêng, như tôn sùng sinh thực khí
mà hội Trò Trám (Phú Thọ) là điển hình.

Tính tâm linh và linh
thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội là ngôn ngữ biểu
tượng, tính thăng hoa, vượt lên thế giới hiện thực, trần tục của đời
sống thường ngày. Ví dụ, diễn xướng ba trận đánh giặc Ân trong Hội Gióng, diễn
xướng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lư, diễn xướng rước Chúa gái (Mỵ Nương)
trong Hội Tản Viên… Chính các diễn xướng mang tính biểu tượng này tạo nên không
khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội.

 

Lễ hội Hùng Vương

 


Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức
hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao
gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người:
sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh
hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui
chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào
của nước ta lại có thể sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc
tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.

– Chủ thể của lễ hội cổ
truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề
nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng
đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một
dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng
tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.

Ba đặc trưng trên nó quy
định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức, thái độ và hành
vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các loại
hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival…

Lễ hội cũng như bất cứ
một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự tác động bối cảnh kinh
tế – xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng biến đổi theo. Tuy nhiên,
với loại hình lễ hội truyền thống thì ba đặc trưng nêu trên là thuộc về bản
chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ có những biểu hiện của ba
đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng bối cảnh xã
hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc phục hồi,
bảo tồn và phát huy lễ hội trong xã hội hiện nay. Việc phục dựng, làm mất đi
các đặc trưng trên của lễ hội cổ truyền thực chất là làm biến dạng và phá hoại
các lễ hội đó.

2. Giá trị của lễ hội cổ
truyền

 

Lễ hội Tịch Điền

 

Khi
nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ
truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội
cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà
cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ các giá trị
sau:

Giá trị cố kết và biểu
dương sức mạnh cộng đồng:

Lễ hội nào cũng là của
và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội
làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền,
hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng – quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp
hơn, như gia tộc, dòng họ… chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng
đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

Mỗi cộng đồng hình thành
và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú
trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế
(công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên
nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng
tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo
nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.

Ngày nay, trong điều
kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá
tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi
các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu
cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu
tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kêt cộng đồng ấy.

Giá trị hướng về cội
nguồn:

Tất cả mọi lễ hội cổ
truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh
ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước,
xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá… Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở
thành tâm thức của con người Việt Nam – “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ
người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương – du
lịch.

Ngày nay, trong thời đại
cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về
tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa
xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường
tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về,
tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên
nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá
của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống,
trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc
ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp
ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại.

Giá trị cân bằng đời
sống tâm linh:

Bên cạnh đời sống vật
chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời
sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng – chân thiện mỹ – cái mà
con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín
ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên
không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín
ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh
của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời
sống trần tục, hiện hữu.

Xã hội hiện đại với nhịp
sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá”
theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng
vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn
khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật
tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”… Tất cả những cái đó hạn chế khả
năng hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang
tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ
hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.

Trở về với văn hoá dân
tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng
nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng,
ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả – chân thiện mỹ, được sống những
giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất
cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các
hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn
ngày thường… Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt
lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái
thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của
đời sống hiện thực.

Giá trị sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa:

Lễ hội là một hình thức
sinh hoạt tín ngưỡng – văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô
thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái
hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm
linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu
sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan
hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân
ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những
giá trị văn hoá của mình.

Điều này có phần nào đối
lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao
động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của
con người đã phần nào tách biệt.

Đấy là chưa kể trong xã
hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo
văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao
tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng
đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn
thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một
cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn
hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con người trong xã hội hiện
đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá
trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ
hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.

Giá trị bảo tồn và trao
truyền văn hóa:

Lễ hội không chỉ là tấm
gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và
phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.

Cuộc sống của con người
Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao
ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ
cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng
trống chiêng, người người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá
thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn
hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn
điệu dân ca như quan họ, hát xoan…; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng,
múa rồng, múa lân…; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải
lương…; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật,
bơi trải, đánh phết, trò trám… sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng
dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ
đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?

Đã ai đó từng nói làng
xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống của
dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã
nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân
thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam
thì cũng không có văn hoá Việt Nam.

Điều này càng cực kỳ
quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá
hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống
dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại
gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc!

3. Thực trạng hoạt động của
các lễ hội truyền thống ở Việt Nam

 

Lễ hội Quan thế âm

 

Những
hiệu quả không thể phủ nhận:

Trong những năm qua,
công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực,
từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội; việc ban hành và thực
thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội cho đến
việc phục hồi và phát huy có hiệu quả nhiều lễ hội dân gian, góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân.

Hầu hết các lễ hội quy
mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều được tổ chức các nghi thức
cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương trình tham gia phần hội
phong phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động văn hóa
dân gian, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để
quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam.

Mặt khác, việc tổ chức
lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống
với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và mỹ
tục truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta, khẳng định
bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức hướng về nguồn cội của cộng đồng. Đồng thời, các
sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn,
tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng, làm nên vẻ đẹp của các công
trình tín ngưỡng, tôn giáo.

Do phát huy vai trò chủ
thể của người dân hoạt động lễ hội đã được xã hội hoá rộng rãi, huy động được
nguồn lực lớn từ nhân dân, nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu
qua công đức, lệ phí, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho trùng tu, tôn tạo
các di tích lịch sử văn hoá, tổ chức lễ hội đã và đang góp phần bảo tồn các
phong tục, tập quán truyền thống và hoạt động phúc lợi công cộng.

Thông qua lễ hội, đã và
đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ thể của hoạt động
lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng góp sức người sức của
cho các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ chức cá nhân và cộng
đồng trong tham gia hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và nhu cầu tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân.

Với tư cách là tài
nguyên du lịch nhân văn đặc biệt, bản thân các lễ hội hay việc tổ chức các lễ
hội kết hợp phát triển du lịch là mô hình mới được hình thành những năm gần đây
và đang trên đà phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả văn hóa và kinh tế
thiết thực như những đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Hội nghị
triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch: “Hoạt động lễ hội đã thực sự
trở thành hoạt động văn hóa du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước và con người
Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”.

Nhờ công tác chỉ đạo
quyết liệt của Bộ và sự vào cuộc của các cơ quan chuyên môn như Thanh tra Bộ,
Cục Văn hóa cơ sở, Cục Di sản Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, trong
mùa lễ hội Xuân 2012 vừa qua, mộ số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức lễ
hội đã có những thay đổi cơ bản như Lễ hội chùa Hương (Hà Nội), Đền Trần (Nam
Định). . .

Bốn cảnh báo về tổ chức
1ễ hội cổ truyền hiện nay:

Bên cạnh những điều đáng
mừng trên, quan sát bức tranh lễ hội cổ truyền hiện nay, ta vẫn thấy canh cánh
những lo lắng, băn khoăn. Sau một thời gian dài, do chiến tranh, do quan niệm
ấu trĩ, sai lầm của chúng ta, lễ hội mất mát, tiêu điều, nay phục hưng trở lại,
do vậy cũng không tránh được lệch lạc, khiếm khuyết; công tác tổ chức và quản
lý lễ hội đã và đang nảy sinh nhiều bất cập, nhiều hạn chế và tồn tại. Tình
hình đó được phản ánh thường xuyên, liên tục trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tại nhiều hội nghị, hội thảo cho đến cả nghị trường của Quốc hội, gây
không ít bức xúc trong xã hội. Có thể khái quát thành bốn hiện tượng đáng cảnh
báo như sau:

Đơn điệu hoá lễ hội:

Văn hoá nói chung cũng
như lễ hội nói riêng, bản chất của nó là đa dạng. Cùng là lễ hội, nhưng mỗi
vùng miền, thậm chí mỗi làng có nét riêng, theo kiểu người xưa nói “Chiêng làng
nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Hay người xưa khi nói về những
nét riêng của lễ hội từng làng của Xứ Đoài thì đã có câu ca :

Bơi Đăm, Rước Giá, Hội
Thầy

Vui thì vui vậy, chẳng
tầy rã La

Như vậy, mỗi lễ hội đều
có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội làng
mình. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn
điệu hoá, hội làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột đi tính đa
dạng của lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự hội thì cảm thấy nhàm
chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa.

Trần tục hoá lễ hội:

Lễ hội gắn với tín
ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm linh nó mang “tính thiêng”.
Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng trong mỗi xã hội nó được biểu
hiện ở những hình thức khác nhau. Lễ hội cổ truyền tuy nảy mầm, bén rễ từ đời
sống hiện thực, trần tục, nhưng bản thân nó là sự thăng hoa từ đời sống hiện
thực và trần tục ấy. “Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng. Ví
dụ, 3 trận đánh giặc Ân của ông Gióng trong hội Gióng là 3 trận đánh mang tính
biểu trưng. Giặc Ân cũng biểu trưng hoá thành yếu tố “âm” của 28 cô gái. Để nói
vận hành của trời đất liên quan đến canh tác nông nghiệp của người nông dân,
thì trong hội vật cầu hay hội đánh phết, người xưa đã biểu trưng hoá quả cầu
hay quả phết thành màu đỏ biểu tượng cho mặt trời, được đánh theo hướng đông
tây là chuyển động của mặt trời…

Ngày nay, trong phục hồi
và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là cách
diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của người xưa, nên lễ hội đang bị
trần tục hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ
biểu tượng của lễ hội và như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.

Quan phương hoá lễ hội:

Văn hoá nói chung, trong
đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân dân, do nhân dân và vì dân. Đó là
cách thức mà người dân nói lên những mong ước, khát vọng tâm linh, thoả mãn nhu
cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của mình. Do vậy, từ bao đời nay, người dân
bỏ công sức, tiền của, tâm sức của mình ra để sáng tạo và duy trì sinh hoạt lễ
hội. Đó chính là tính nhân bản, khát vọng dân chủ của người dân, nó khác với
các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước kia.

Trong việc phục hồi và
phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ
hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch…đây đó và ở những mức độ
khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hoá, áp đặt một số mô hình định
sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn
bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hoá mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính
xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”,
mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du khách
hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc.

Thương mại hoá lễ hội:

Cần phân biệt giữa hoạt
động mua bán trong lễ hội và việc thương mại hoá lễ hội. Từ xa xưa, trong lễ
hội không thể thiếu việc mua bán các sản phẩm độc đáo của địa phương, các món
ăn đặc sản, mà hội chợ Viềng Ở Nam Định và các hội chợ vùng núi là hiện tượng
điển hình. Chính các hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hoá, phong tục
“mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa phương, mang lại những thu
nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương. Đó là các hoạt động rất đáng
khuyến khích.

Tuy nhiên, cùng với xu
hướng phục hồi và phát triển lễ hội hiện nay, thì không ít các hoạt động mang
tính “thương mại hoá”, lợi dụng lễ hội để thu lợi bất chính, ép buộc, bắt chẹt
người đi trẩy hội, đặc biệt là lợi dụng tín ngưỡng trong lễ hội để “buôn thần
bán thánh” theo kiểu “đặt lễ thuê”, “khấn vái thuê”, bói toán, đặt các “hòm
công đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền như trong lễ hội
Chùa Hương, Bà Chúa Kho… Cũng không phải không có một số “tổ chức” mệnh danh
là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách trẩy
hội. Những hoạt động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hoá của
lễ hội, đẩy lễ hội rớt xuống mức thấp nhất của đời sống trần tục.

Sưu tầm < http://cinet.gov.vn/ >