Kỹ thuật nuôi cua đồng | Cổng TTĐT Tài năng trẻ Quốc gia

I. Nuôi cua đồng trên ruộng

 
 

Cua đồng thuộc lớp giáp xác, bộ 10 chân. Ở nước ta cua đồng thường gặp ở vực nước ngọt: ao, hồ, ruộng, sông, suối, nước lợ nhạt vùng đồng bằng, trung du và miền núi.

Cua đào hang ven bờ ruộng, ao, mương… Hang cua khác với hang của rắn, ếch… bằng vết chân để lại trên ruộng. Cua cái có 4 đôi chân bụng, cua đực có 2 đôi chân bụng biến thành chân giao cấu. Trước đây, sản lượng cua đồng tại Việt Nam lên đến hàng vạn tấn, song do kỹ thuật canh tác mới, xây dựng thủy lợi, sử dụng thuốc trừ sâu… đã làm giảm nguồn lợi cua đồng ở nhiều địa phương.

Một số hộ dân ở Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc đã thu gom cua giống tự nhiên để thả nuôi trong ruộng lúa. Sau khoảng 6 – 8 tháng nuôi có thể tiến hành thu hoạch. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu khoa học nào tổng kết kỹ thuật nuôi cua đồng tại Việt nam. Vì vậy, bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi cua đồng trong ruộng lúa thường được người dân áp dụng…

1. Chuẩn bị ruộng nuôi

– Chọn ruộng nuôi: địa thế ruộng bằng phẳng, giữ nước tốt, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận lợi, chất nước không bị ô nhiễm, chất đất là loại đất thịt.

– Diện tích mỗi ruộng từ 1/3 ha đến 2/3 ha là vừa, nhỏ quá chất nước không ổn định, lớn quá khó quản lý.

– Đào mương nuôi tạm ở góc ruộng hoặc ở ria ruộng, rộng 4 – 6 m, sâu 1 – 1,5 m, diện tích khoảng 3 – 5% diện tích ruộng.

– Đào mương bao quanh và mương giữa. Mương bao quanh chân bờ về phí trong 1m, sâu 0,8 – 1,0m, rộng 3 – 5m. Nếu ruộng rộng, đào thêm ở giữa ruộng hình chữ “thập” rộng 1 – 1,5m, sâu 0,5 – 0,8m. Tổng diện tích cả 3 loại mương chiếm khoảng 15 – 20% diện tích đất ruộng.

– Lấy đất đào mương để đắp bờ ruộng cho cao và to ra. Chú ý nện đất chặt để nước bị rò rỉ. Các cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng săm hoặc lưới thích hợp, nền cống phải đầm chặt.

– Đặt lưới chắn xung quanh ruộng. Nếu lưới bằng nilon mỏng thì phải đóng cọc cao hơn mặt bờ 40 – 50cm, lấy dây thép buộc nối các đầu cọc với nhau, gấp đôi tấm nilon lên dây thép cho rủ xuống đất thành 2 lớp rồi vùi sâu trong đất bờ từ 15 – 20cm. Nếu chắn bằng tấm nhựa hoặc fibroximăng… thì chỉ cần vùi xuống đất 15 – 20 cm, đầu trên cao hơn mặt đất ít nhất là 40cm, bốn góc lượn hình cung.

– Dùng vôi sống hàm lượng 75 – 105 kg/1.000m2 hoà nước té đều khắp mương.

– Trồng các loại cỏ nước phủ kín đáy mương và thả các loại cây nổi như bèo tấm, rau dừa nước, bèo cái…khoảng 1/3 mặt nước.

2. Thả giống

Thời gian thả giống cua là từ khoảng tháng 2 đến tháng 4 hàng năm.

–  Con giống yêu cầu khoẻ mạnh, không thương tật.

–  Mật độ: nếu cỡ giống là 100 -150 con/kg thì mật độ thả là 750con/1.000m2; hoặc nếu cỡ giống là 300 – 600 con/g thì thả 1800 con/1.000m2.

– Cần thả giống vào mương nuôi tạm trước khi cấy lúa để kéo dài thời gian sinh trưởng của cua. Lúc cấy xong đợi đến thời kỳ lúa con gái thì tăng nước lên ruộng lúa để cua lên ruộng ăn.

3. Cho ăn

– Thức ăn:

Cua là động vật ăn tạp thiên về thức ăn động vật. Chúng thích ăn thịt các loại nhuyễn thể như trai, ốc, hến, cá tạp. Nếu thiếu thức ăn chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau, nhất là cua mới lột vỏ. Thức ăn nuôi cua thường được khai thác tại chỗ. Trước khi thả giống, nên bón phân lót ở ven mương với lượng 300 – 450 kg/1.000m2 để động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua con. Từ tháng thứ 4 nên thả ốc giống vào ruộng (450 – 600kg/1.000m2 hoặc thả tôm ôm trứng để sinh sản thành tôm con làm thức ăn cho cua cỡ lớn hơn. Ngoài ra có thể dùng các loại thức ăn đã chế biến dạng hạt vừa có dinh dưỡng cao. Nếu có điều kiện thì tận dụng cá tạp và phế thải động vật để giảm giá thành.

– Cho ăn:

Căn cứ vào mùa vụ, nhiệt độ nước và giai đoạn sinh trưởng của cua để cho ăn hợp lý.

+ Từ tháng 3 đến tháng 5, cua chủ yếu ăn thức ăn tinh. Thức ăn nên làm thành các nắm bột nhão nhỏ. Lượng thức ăn từ 20 – 30% trọng lượng cua.

+ Từ tháng 6 đến tháng 9, cua ăn khoẻ, mau lớn nên cần cho ăn thêm rong cỏ, khoai sắn, bổ sung thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế từ cá tạp.

+ Từ tháng 10 trở đi, cần tăng thêm thức ăn từ động vật. Lượng thức ăn từ 7 – 10% trọng lượng cua.

+ Mỗi ngày cho cua ăn 2 lần, buổi sáng sớm và chiều tối. sáng cho ăn từ 20 – 40%, chiều cho ăn chính là 60 – 80% tổng lượng thức ăn hàng ngày.

+ Cần đặt sàng ăn tại 1 số điểm trong mương để kiểm tra lượng thức ăn của cua. Căn cứ vào thưòi tiết, nhiệt độ, tình hình ăn mồi của cua để điều tiết lượng thức ăn hàng ngày.

4. Chăm sóc

– Nước trong ruộng luôn phải dảm bảo sâu từ 5 – 10 cm. Nước quá béo thì phải thay nước. Từ tháng 6 đến tháng 9, cứ 2 ngày thay nước 1 lần, từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 10 trở đi mỗi tuần thay nước 1 lần. Mỗi lần thay từ ¼ – 1/3 lượng nước ruộng

– Định kỳ bón vôi để bổ sung lượng vôi trong nước, thường từ 15 – 20 ngày/lần, lượng vôi sống 22kg/1.000m2.

– Chú ý điều chỉnh lượng cỏ nước ở mật độ nhất định. Định kỳ kiểm tra mương để phát hiện địch hại gây bệnh, dọn dẹp thức ăn thừa, xác cua chết, đảm bảo nước trong sạch.

5. Thu hoạch

Thời điểm thu hoạch chủ yếu là vào tháng 10. Tuy nhiên nên thu tỉa cua lớn trước, giữ cua nhỏ lại nuôi tiếp.

 

 II. Nuôi cua đồng trong ao

 

1. Chuẩn bị ao nuôi

– Nguồn nước phải chủ động, không ô nhiễm.

– Có cống cấp và cống thoát nước riêng biệt.

– Đáy ao tốt nhất là đất thịt, có lớp bùn dày 20cm là vừa.

– Ao nuôi có diện tích từ 300-1.000m2, độ sâu 0,8-1,2m.

– Xung quanh bờ phải rào bằng đăng tre, tấm nhựa hoặc lưới cước đặt nghiêng về phía ao không cho cua thoát ra được.

2. Cải tạo ao nuôi

Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành tát cạn nước để diệt hết địch hại của cua và tiêu diệt mầm bệnh, bằng cách bón vôi 7-10 kg/100 m2, phơi nắng 3-5 ngày sau đó cấp nước vào ao

.

– Tiến hành gây màu nước cho ao bằng phân chuồng hoặc phân hóa học để tạo nguồn động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua giống mới thả.

– Trong ao nuôi nên chất chà làm nơi trú ngụ cho cua lúc cua lột xác tránh bị hao hụt, có thể thả thêm bèo, rau muống, rau dừa nước … để che phủ ao vào những ngày nắng gắt. Độ che phủ khoảng 1/3 diện tích mặt ao.

3. Chọn và thả giống

– Thời vụ thả giống thường từ tháng 2 – 4 hàng năm

– Chọn con giống khỏe mạnh, không bị bệnh tật, đầy đủ càng và chân, màu sắc tươi sáng không bị đóng rong có thể chọn cua đực để nuôi góp phần tăng năng suất và giá trị thương phẩm.

– Mật độ:

10-15 con/m2.

– Thả cua ta không nên thả trực tiếp xuống ao mà phải thả từ mé bờ ao cho cua tự bò xuống ao, ruộng tránh hiện tượng cua bị sốc môi trường.

4. Chăm sóc

– Thức ăn cho cua rất đa dạng thiên về động vật bao gồm cá tạp, ốc, hến, khoai lang, khoai mì…thức ăn nên bằm nhỏ vừa cỡ miệng cua.

– Khẩu phần ăn từ 5-8 % trọng lượng cua/ngày và được chia làm 2 lần trong ngày, sáng sớm ăn 20 – 40% và chiều ăn 60 – 80 % trọng lượng thân. Thức ăn phải còn tươi không bị ôi thiu, nấm mốc.

– Cần cho cua ăn thức ăn vừa đủ để đảm bảo chất lượng nước vừa giúp cua tiêu hóa tốt thức ăn và hạn chế hao phí thức ăn, hạ giá thành nuôi. Trong ao nuôi cần bố trí một số sàng ăn để đánh giá tình trạng bắt mồi của cua và đồng thời căn cứ vào điều kiện thời tiết mà điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

5. Thức ăn

cho cua

* Thức ăn

Cua là động vật ăn tạp thiên về thức ăn động vật. Chúng thích ăn thịt các loại nhuyễn thể như trai, ốc, hến, cá tạp. Nếu thiếu thức ăn chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau, nhất là cua mới lột vỏ. Thức ăn nuôi cua thường được khai thác tại chỗ. Trước khi thả giống, nên bón phân lót ở ven mương với lượng 300-450 kg/1000m2 để động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua con. Từ tháng thứ 4 nên thả ốc giống vào ruộng (450-600kg/1000m2 hoặc thả tôm ôm trứng để sinh sản thành tôm con làm thức ăn cho cua cỡ lớn hơn. Ngoài ra có thể dùng các loại thức ăn đã chế biến dạng hạt vừa có dinh dưỡng cao. Nếu có điều kiện thì tận dụng cá tạp và phế thải động vật để giảm giá thành.

* Cho ăn

Căn cứ vào mùa vụ, nhiệt độ nước và giai đoạn sinh trưởng của cua để cho ăn hợp lý.

– Từ tháng 3 đến tháng 5, cua chủ yếu ăn thức ăn tinh. Thức ăn nên làm thành các nắm bột nhão nhỏ. Lượng thức ăn từ 20-30% trọng lượng cua.

– Từ tháng 6 đến tháng 9, cua ăn khoẻ, mau lớn nên cần cho ăn thêm rong cỏ, khoai sắn, bổ sung thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế từ cá tạp.

– Từ tháng 10 trở đi, cần tăng thêm thức ăn từ động vật. Lượng thức ăn từ 7-10% trọng lượng cua.

– Mỗi ngày cho cua ăn 2 lần, buổi sáng sớm và chiều tối. sáng cho ăn từ 20-40%, chiều cho ăn chính là 60-80% tổng lượng thức ăn hàng ngày.

– Cần đặt sàng ăn tại 1 số điểm trong mương để kiểm tra lượng thức ăn của cua. Căn cứ vào thời tiết, nhiệt độ, tình hình ăn mồi của cua để điều tiết lượng thức ăn hàng ngày

6. Quản lý

ao nuôi

– Thường xuyên thay nước cho ao nuôi khoảng 1 tuần/lần để kích thích cua lột xác và bắt mồi mạnh, mỗi lần thay nước từ 1/4-1/3 lượng nước trong ao, mương.

– Định kỳ bón vôi cho ao nuôi 15 ngày/lần với liều lượng 2-3 kg/100m2 hòa vào nước, lấy nước trong tạt đều khắp ao.

– Thường xuyên kiểm tra đăng chắn cống, bờ rào chắn để tránh cua thất thoát ra ngoài.

7. Thu hoạch cua

Thời điểm thu hoạch chủ yếu là vào tháng 10.

– Khi cua đạt kích thước thương phẩm được giá cao có thể tiến hành thu hoạch.

– Thu tỉa bằng cách đặt lờ, lợp… tát cạn, bắt bằng tay nếu thu toàn bộ.

– Cua nhỏ không đủ cỡ thương phẩm

nên

để lại nuôi tiếp cho vụ sau.

 

                                                      ĐH (Nguồn: Khuyến nông Việt Nam)