Kỹ thuật nuôi cá Điêu hồng
Chuẩn bị ao nuôi:
Là khâu quan trọng để tạo ra nhiều thức ăn tự nhiên cho cá trong suốt vụ nuôi.
–
Đối với ao nuôi luân canh, xen vụ, một vụ tôm-một vụ cá với mật độ 1-2
con/m2 thì việc chuẩn bị ao nuôi trở nên đơn giản, nhưng chú ý đến vấn
đề diệt cá tạp, rắn nước. Có thể bón thêm vôi sống được xay trực tiếp
từ đá vôi, vỏ sò, ốc … số lượng từ 300-500 kg/ha và phân hữu cơ (phân
heo, gà, trâu, bò …) ủ thật hoai, bón lót vào nền đáy ao từ 300-500
kg/ha.
– Đối với các ao nuôi tăng sản, mật độ từ 5-7 con/m2 trở lên, thời gian nuôi
kéo
dài, việc chuẩn bị ao cần làm kỹ các khâu dọn bùn dơ, phơi nắng 5-7
ngày, cày xới nền đáy. Lượng vôi và phân bón nhiều hơn so với mật độ
nuôi thưa và phải bón bổ sung thêm trong quá trình nuôi.
2. Gây màu nước:
Sau
khi thu hoạch tôm và công việc bón vôi, phân, diệt tạp đưụơc thực hiện
xong, đóng khung lưới lọc cá tạp và cho nước vào 30-40 cm sau 4-5 ngày
nước lên màu xanh nhạt, xanh vàng hoặc xanh lá chuối thì tiếp tục cấp
nước vào ao đạt mực 1m và chuẩn bị thả cá giống.
Nuôi cá rô phi trong ao, đìa nuôi tôm cần chú ý:
-Nên
tận dụng lại các nguồn nước thải ra từ các ao nuôi tôm vì nguồn nước
này chứa nhiều loại tảo là nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào cho cá rô
phi.
-Có
thể nuôi cá rô phi trong ao nước ngọt hoặc ao ương 1-2 tháng với mật độ
dày (15-20 con/m2) vào thời điểm tháng 6,7. Đến khi thu tôm (tháng
9,10) chuyển số cá này sang ao nuôi tôm, cá sẽ lớn nhanh, rút ngắn được
thời gian nuôi.
3. Cá giống:
Cá giống đạt các tiêu chuẩn :
– Hình dạng cân đối, không dị hình, không xây xát.
– Màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh.
Khi
thả cá ta phải để bao, túi chứa cá xuống ao từ 15-20 phút, sau đó đổ cá
ra các thau, chậu để thuần dưỡng độ mặn. Thêm nước mặn từ từ vào thau,
chậu để tăng dần sau 1 giờ tăng lên 2-3‰ (độ mặn) và tăng dần đến khi
bằng độ mặn của nước ao.
– Nên thả cá giống vào buổi sáng hoặc chiều mát. Tránh thả cá vào buổi trưa
hoặc
trời nắng gay gắt, cá giống vừa phải chống chịu với nhiệt độ cao vừa
phải thích nghi với độ mặn làm cho các bị và hao hụt sau khi mới thả.
Đối với ao đìa có độ mặn từ 15‰ trở xuống thì không cần phải thuần dưỡng mà có thể thả cá giống trực tiếp xuống.
4. Mật độ nuôi:
Khi
mới thả cá giống có trọng lượng 0,5-1 gam/con tương đương với 1000-2000
con/kg. Cá giống có thể thả nuôi trong ao nhỏ với mật độ 15-20 con/m2,
sau một tháng chuyển sang ao lớn hơn, giảm mật độ xuống còn 7-10 con/m2
và sau 2 tháng có thể chuyển sang ao có mật độ nuôi phù hợp 2-3 con/m2.
– Trong điều kiện bình thường nuôi luân canh một vụ tôm, một vụ cá có thể nuôi ở mật độ 2-3 con/m2.
-Trong điều kiện chăm sóc quản lý tốt và quản lý tốt có thể nuôi ở mật độ 3-5 con/m2 .
– Trong nuôi tăng sản, có máy quạt nước có thể nuôi ở mật độ 5-10 con/m2
5. Cho cá ăn:
Sử dụng thức ăn tự chế biến gồm các thành phần:
– Cá tạp, cá vụn, cua, ghẹ nhỏ hoặc các chế phẩm từ các lò mổ gia súc: 40-50%
– Bột bắp, bột mì, bột khoai lang, bột gạo: 20-30%
– Cám gạo: 10-20%
– Bã đậu nành, đậu phộng: 10-20%
+ Cách chế biến : Các thành phần trên được nấu chín, trộn với cám gạo, xay đùn ra sợi, phơi ráo và cho ăn hết trong ngày.
+ Cho ăn : 02 lần mỗi ngày:
– Sáng vào lúc 5-6 giờ và
– Chiều vào lúc 17-18 giờ.
+ Lượng thức ăn :
– Tháng đầu : lượng thức ăn trong tháng bằng 3-5% trọng lượng đàn cá.
– Tháng thứ 2 : lượng thức ăn trong ngày bằng 2-3% trọng lượng đàn cá.
– Tháng thứ 3 trở đi : lượng thức ăn trong ngày bằng 0,5-1% trọng lượng cá.
+ Trong nuôi cá rô phi cần chú ý kết hợp cho ăn với việc bón phân hữu cơ sẽ gia tăng năng suất cá nuôi.
–
Để tạo thức ăn tự nhiên phong phú có thể bón phân hữu cơ (thường là
phân heo, gà, vịt, trâu, bò …) và phân vô cơ (Urê, N.P.K…) hai loại
phần này được dùng kết hợp hoặc riêng lẻ tuỳ điều kiện màu mỡ của từng
ao nuôi.
Ví dụ : Cho ăn kết hợp bón phân gà (đã ủ hoai) ở mức độ 5kg phân khô/ha/ngày và bón 5ngày/tuần sẽ cho kết quả tốt.
Việc
tạo ra thức ăn tự nhiên tốt (màu nước đậm, mật độ tảo dày) hoặc những
ao đìa giàu dinh dưỡng được xem là biện pháp hữu hiệu nhất để tăng năng
suất cá nuôi trong ao, đìa.
6. Chăm sóc quản lý:
Hàng ngày quan sát rò rỉ xung quanh bờ ao, khung lưới cống và hoạt động của cá.
-Nếu thấy cá nuôi nổi đầu từ lúc sáng sớm thì phải cung cấp thêm nước.
– Định kỳ 10-15 ngày kiểm tra cá bằng chài, cân đong tự tăng trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn của cá hàng ngày.
7. Thu hoạch:
Sau khi nuôi 5-6 tháng, cá đạt trọng lượng 0,5-0,6 kg/con, có thể thu hoạch cá thịt, có hai cách thu.
– Thu tỉa : tháo nước ao cạn ở mức nước 40-50cm, kéo lưới thu tỉa cá lớn.
– Thu sạch : kéo lưới bắt nhiều lần sau đó bơm cạn bắt hết số cá còn lại.
Kết
luận: Cá rô phi dễ nuôi, có khả năng thích nghi tốt với sự biến đổi
của môi trường. Chúng ăn các loại tảo, động vật nhỏ, mùn bã hữu cơ làm
sạch môi trường trong ao nuôi.
Nuôi
cá rô phi đơn tính trong ao nuôi tôm vụ đông xuân vừa tạo ra thu nhập
cho người nuôi tôm, đồng thời tạo sản phẩm ý nghĩ cho xã hội, đó là
nguồn đạm tươi sống cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
VIETLINHPTE. Official Homepage. All rights reserved
Cách phòng trị bệnh cho cá điêu hồng
Cá
rô phi đỏ hay còn gọi là cá điêu hồng (Red Tilapia) hiện đang được nuôi
khá phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mang lại giá trị kinh tế
cao. Những đặc điểm sinh học cơ bản trong điều kiện thả nuôi được xác
định như sau: về dinh dưỡng là loài cá ăn tạp các chất như: mùn bả hữu
cơ, tảo, ấu trùng côn trùng, trong ao nuôi hoặc bằng bè, cá ăn thức ăn
tự chế từ các phụ phẩm nông nghiệp, thức ăn viên (đạm từ 20 – 25%). Về
sinh sản, cá rô phi đỏ là loài nắm đẻ, đẻ quanh năm, ấp trứng trong
miệng. Có thể ương cá con trong ao hoặc trong chậu, lồng. Khi ương
trong ao cần bón phân gây thức ăn tự nhiên để nuôi cá bột, còn khi ương
trong lồng, chậu thì không cần bón phân nhưng phải thường xuyên vệ sinh
chập, lồng. Môi trường nuôi chủ yếu trong ao hoặc lồng bè. Trong ao,
sau 1 năm nuôi, cá đạt 200 – 500g/cn; khi nuôi bè cá lớn nhanh hơn (đạt
trọng lượng 200 – 500g/con chỉ 7 – 8 tháng) và tỷ lệ hao hụt thấp.
Phòng trị một số bệnh thường gặp:
– Bệnh do ký sinh trùng:
các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con trong quá
trình ương. Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở ương giống có tỉ lệ hao hụt
từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn
công), bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ,
bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).
Cách phòng trị: ao
ương hoặc nuôi cá phải có sục khí. Khi phát hiện cá bị bệnh cần bón:
Formol nồng độ 25 – 30ml/m3 trị thời gian dài và nồng độ từ 100 –
150ml/m3 nếu trị trong 15-30 phút; CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2-5g/10m3
trị thời gian dài và từ 20 – 50g/10m3 trị trong 15 – 30 phút, cách ngày
trị một lần; muối ăn dùng để phòng và trị bệnh cho cá, nồng độ 1-3% trị
thời gian dài và 1-2% trị trong 10-15 phút.
– Bệnh xuất huyết:
bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiellatarda gây ra. Cá có
dấu hiệu toàn thân bị xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có
dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra. Bệnh thường xuất
hiện ở cá rô phi đỏ nuôi bè.
Biện pháp đề phòng:
là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay nước lúc giao mùa. Nên định kỳ bón
khử trùng nơi cho ăn. cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể
trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tuỳ theo tình trạng bệnh.
– Cá trương bụng do thức ăn:
thường xảy ra ở các ao, bè cho cá ăn thức ăn tự chế không được nấu
chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu hoá được thức ăn, bụng
cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá bơi lờ đờ và chết rải rác.
Biện pháp khắc phục:
là kiểm tra chất lượng và thành phần thức ăn để điều chỉnh lại cho
thích hợp. Nếu trường hợp nặng, thường xuyên có thể thay đổi thức ăn.
Trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotic…)
– Cá chết do mật độ dày: Hiện
tượng này thường xảy ra ở các ao, bè nuôi thâm canh với mật độ quá dày.
Cá chết không có dấu hiệu bệnh lý, chỉ nổi lờ đờ và chết hàng loạt. Tỉ
lệ cá chết lệ thuộc vào mật độ và chất lượng nước. Mật độ thích hợp để
thả nuôi cá rô phi thịt là 100-150con/m3. nếu mật độ trên 200 con/m3 có
thể gây chết đột ngột lúc giao nước hoặc sau những cơn mưa lớn.
( Web An Giang (11/25/2003 9:20:33 AM) – Báo KHPT )
( Web An Giang (11/25/2003 9:20:33 AM) – Báo KHPT )