Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo | Xemtailieu
Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo
-
doc
-
190
trang
Lời cam đoan
Tôi cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung
thực và có xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Vũ Thuý Hoàn
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
Chuong 1
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
1.2.
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ
PHẠM CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON VỚI TRẺ
MẪU GIÁO
2.1
Các khái niệm cơ bản
2.2
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm cơ bản của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo và tiêu chí đánh giá
2.3
Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp sư phạm
của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo
Chương 3
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1
Tổ chức nghiên cứu
3.2
Các phương pháp nghiên cứu
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KỸ NĂNG GIAO
TIẾP SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
VỚI TRẺ MẪU GIÁO
4.1
Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo
4.2
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao
tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo
4.3
Biện pháp tâm lý – sư phạm nâng cao kỹ năng giao
tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo
4.4
Kết quả thực nghiệm tác động
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
5
12
12
28
32
32
64
79
90
90
93
112
112
145
153
164
173
176
177
188
STT
TÊN BẢNG
Bảng 2.1. Đánh giá tổng hợp mức độ biểu hiện của các
1
nhóm kỹ năng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
Trang
mầm non với trẻ mẫu giáo
Bảng 4.1: Đánh giá chung về thực trạng kỹ năng giao tiếp
78
sư phạm của giáo viên mầm non
Bảng 4.2a: Nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ với trẻ mẫu giáo
Bảng 4.2 b: Kỹ năng nắm bắt tâm lý trẻ
Bảng 4.2 c: Kỹ năng thể hiện sự thành tâm, thiện ý, tôn
112
117
118
trọng trẻ
Bảng 4.2 d: Kỹ năng thể hiện sự yêu thương trẻ
Bảng 4.3 a: Nhóm kỹ năng trao đổi thông tin về nhận thức,
121
122
tình cảm, hành động
Bảng 4.3b: Kỹ năng trao đổi thông tin về nhận thức
Bảng 4.3c: Kỹ năng trao đổi thông tin về tình cảm
Bảng 4.3 d: Kỹ năng trao đổi thông tin về hành động
Bảng 4.4a : Nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Bảng 4.4 b: Kỹ năng sử dụng đồ dùng, đồ chơi
Bảng 4.4 c: Kỹ năng sử dụng hành vi, cử chỉ
Bảng 4.4 d: Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói
Bảng 4.5. So sánh mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm của
123
124
126
128
130
131
132
134
giáo viên mầm non theo các trình độ đào tạo
Bảng 4.6. So sánh mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm của
136
giáo viên mầm non theo thâm niên nghề nghiệp
Bảng 4.7: So sánh mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm của
138
giáo viên mầm non theo địa bàn
Bảng 4.8: Tương quan giữa các kỹ năng (r)
140
143
Bảng 4.9: Điểm trung bình chung của kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên mầm non
Bảng 4.10: Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng
145
giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non
Bảng 4.11: Kết quả khảo sát trước và thực nghiệm
146
165
22
23
24
Bảng 4.12: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ với trẻ thống kê
theo tần suất
Bảng 4.13: Kỹ năng trao đổi thông tin về nhận thức, tình
166
cảm, hành động thống kê theo tần suất
Bảng 4.14: Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp của giáo
168
viên mầm non thống kê theo tần suất
170
DANH MỤC SƠ ĐỒ BIỂU ĐỒ
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
TÊN SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 4.1. Các mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm của
giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo
Biểu đồ 4.2. Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo
116
viên mầm non với trẻ mẫu giáo
Biểu đồ 4.3. So sánh mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm
135
của giáo viên mầm non theo trình độ đào tạo
Biểu đồ 4.4. So sánh mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm
137
của giáo viên mầm non theo thâm niên
Biểu đồ 4.5. Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm
139
non ở các địa bàn khác nhau
Sơ đồ 4.1. Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng với các
141
kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ
mẫu giáo
Biểu đồ 4.6: Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm
150
non với trẻ mẫu giáo trước và sau thực nghiệm
Biểu đồ 4.7: Kỹ năng thiết lập quan hệ với trẻ trước và sau
165
thực nghiệm
Biểu đồ 4.8: Kỹ năng trao đổi thông tin về nhận thức, tình
167
cảm, hành động trước và sau thực nghiệm
Biểu đồ 4.9: Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp trước
169
và sau thực nghiệm
171
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Giáo viên mầm non là người chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ 3
tháng đến 72 tháng tuổi tại các cơ sở giáo dục mầm non thuộc các loại hình
trường công lập, bán công, dân lập, tư thục. Vị trí của người giáo viên mầm
non có thể được coi là người thầy đầu tiên cùng với cha mẹ trẻ xây dựng nền
móng ban đầu của nhân cách con người. Mục đích lao động sư phạm của giáo
viên mầm non nhằm giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ;
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách [16, tr. 312].
Để thực hiện có hiệu quả mục đích trên, giáo viên mầm non phải sử
dụng nhiều phương tiện lao động khác nhau, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm
mầm non đạt yêu cầu [64]. Một trong những kỹ năng rất quan trọng trong
hoạt động sư phạm mà giáo viên mầm non cần phải có đó là kỹ năng giao tiếp
sư phạm. Bởi vì, thông qua giao tiếp, cô giáo sẽ thiết lập được mối quan hệ
với trẻ, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và giúp trẻ lĩnh hội các tri thức
tiền khoa học trong chương trình giáo dục mầm non. Sự thành thục, linh hoạt
trong quá trình giao tiếp của cô với trẻ sẽ là một yếu tố đóng vai trò quan
trọng giúp trẻ yêu cô, yêu lớp, yêu trường mầm non, từ đó khơi dậy ở trẻ
những cảm xúc tích cực, phong phú và hứng thú tham gia các hoạt động do cô
tổ chức. Như vậy, kỹ năng giao tiếp sư phạm là một yếu tố quan trọng,
không thể thiếu đối với giáo viên mầm non khi chăm sóc giáo dục trẻ, yếu
tố này giúp họ dễ dàng thực hiện các mục đích giáo dục và đạt được kết quả
cao, ngược lại, nếu thiếu nó, quá trình tác động đến trẻ sẽ gặp khó khăn,
không đạt hiệu quả. Tuy nhiên, qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi nhận thấy, đa
số giáo viên mầm non (26/30) chưa chú ý rèn luyện nâng cao kỹ năng này
cho bản thân. Họ nghĩ rằng, chỉ cần nắm vững chuyên môn, tổ chức các
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo đúng chương trình, cho các con ăn đủ
6
chất dinh dưỡng để phát triển vận động tinh, vận động thô, chiều cao cân nặng
theo đúng chuẩn là được. Từ đó dẫn đến nhận thức của giáo viên về lĩnh vực
này còn nhiều hạn chế, các giáo viên còn xem nhẹ vai trò của kỹ năng giao tiếp
sư phạm trong quá trình giáo dục.
Trẻ mẫu giáo là những trẻ từ 3 – 6 tuổi, gồm mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi), mẫu
giáo nhỡ (4 – 5 tuổi) và mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi). Ở độ tuổi này, ngôn ngữ nói tuy
đã phát triển và trở thành phương tiện giao tiếp chủ đạo của trẻ nhưng vẫn còn hạn
chế, tình cảm đang trong giai đoạn phát triển và chi phối toàn bộ đời sống tâm lý
của trẻ, kiểu tư duy trực quan hành động đang chiếm ưu thế. Đặc biệt trẻ mẫu giáo
bé đang trải qua thời kỷ khủng hoảng tâm lý, với những mâu thuẫn mà trẻ phải
vượt qua dưới sự hướng dẫn chăm sóc đúng đắn của nhà giáo dục, đó là mâu
thuẫn giữa nhu cầu, mong muốn được tự lập và khả năng còn hạn chế; mâu thuẫn
giữa nhu cầu muốn được làm việc như người lớn với những cấm đoán của người
lớn. Những đặc điểm tâm lý đó của trẻ mẫu giáo là một khó khăn đối với người
giáo viên mầm non, đặc biệt trong quá trình giao tiếp. Nếu họ không có kỹ năng
giao tiếp tốt, không am hiểu đặc điểm tâm lý của trẻ thì việc giáo dục trẻ sẽ gặp rất
nhiều trở ngại, và có thể dẫn tới những sai lệch trong hành vi giáo dục. Năm 2017,
tác giả Nguyễn Minh Ngọc đã có công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên mầm non nhưng chỉ là với trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi). Như
vậy, đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống cả về cơ sở lý luận và thực tiễn kỹ
năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi) hiện
nay chưa có. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Kỹ năng giao tiếp
sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo, đề xuất các biện pháp tâm lý –
sư phạm nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ
mẫu giáo.
7
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo
viên mầm non với trẻ mẫu giáo.
Khảo sát, đánh giá thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm và các yếu tố ảnh
hưởng đến kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo.
Đề xuất biện pháp tâm lý – sư phạm nâng cao kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo.
Tổ chức thực nghiệm tác động nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm của
giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu và giả
thuyết khoa học
* Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo.
* Khách thể nghiên cứu
Giáo viên mầm non; trẻ mẫu giáo; cán bộ quản lý trường mầm non.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu:
– Biểu hiện và mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm
non với trẻ mẫu giáo qua “hoạt động học” của trẻ mẫu giáo ở trường mầm
non. Đó là hoạt động cơ bản, được diễn ra hàng ngày tại các trường mầm non.
– Các yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo
Về khách thể: Giáo viên mầm non đang chăm sóc giáo dục trẻ tại các
lớp mẫu giáo; trẻ mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ, mẫu giáo lớn; cán bộ quản lý
trường mầm non đang công tác tại các trường mầm non công lập.
8
Về địa bàn nghiên cứu: Luận án triển khai nghiên cứu tại 5 trường
mầm non trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên (Mầm non 19/5, Mầm non Hợp
Thành, Mầm non Phấn Mễ, Mầm non Động Đạt, Mầm non Thị trấn Đu) và 5
trường Mầm non trên địa bàn Thành phố Hà Nội (Mầm non Trung Văn, Mầm
non Đại Mỗ B, Mầm non Bạch Đằng, Mẫu giáo Số 9, Mẫu giáo Việt – Triều
Hữu nghị)
Về thời gian: Luận án tiến hành nghiên cứu từ năm 2014 đến
năm 2017.
* Giả thuyết khoa học
`Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo
hiện nay ở mức trung bình, có sự không đồng đều về mức độ giữa 3 nhóm kỹ
năng thiết lập mối quan hệ với trẻ, nhóm kỹ năng trao đổi thông tin về nhận
thức, tình cảm, hành động và nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp…
Trong đó, kỹ năng thiết lập mối quan hệ với trẻ đạt mức độ thấp nhất.
Kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo chịu sự ảnh
hưởng bởi các yếu tố chủ quan và khách quan, như: Nhận thức về kỹ năng
giao tiếp sư phạm mầm non; lòng yêu nghề mến trẻ; kinh nghiệm nghề nghiệp
của giáo viên; Đặc điểm tâm lý trẻ mẫu giáo; môi trường, điều kiện làm việc ..
Nếu có những biện pháp tác động tích cực vào các yếu tố ( như nhận
thức của giáo viên mầm non về kỹ năng giao tiếp sư phạm…) thông qua tập
huấn, rèn luyện phù hợp thì kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ
mẫu giáo sẽ đạt mức độ cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở các trường mầm non hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và một số các nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản của Tâm lý học:
Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng các hiện tượng tâm lý:
Tâm lý người mang tính chủ thể và mang bản chất xã hội lịch sử, vì vậy khi
9
nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu
giáo cần tính đến các yếu tố khách quan và tính chủ thể của các cá nhân.
Nguyên tắc tiếp cận hoạt động – nhân cách: Hoạt động là phương thức
hình thành, phát triển và thể hiện tâm lý, ý thức, nhân cách. Các kỹ năng giao
tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo được thực hiện và
nghiên cứu thông qua hoạt động giao tiếp sư phạm giữa cô với trẻ.
Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Con người là một thực thể xã hội, hành
vi của các cá nhân phải được xem là kết quả của sự tác động qua lại của nhiều
yếu tố khác nhau như chủ quan, khách quan. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ năng
giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo trong mối quan hệ
với nhiều yếu tố như: Nhận thức, kinh nghiệm nghề nghiệp, lòng yêu nghề
mến trẻ, ý thức tự rèn luyện, đặc điểm tâm lý trẻ 3- 6 tuổi, môi trường điều
kiện làm việc…
Những vấn đề lý luận của tâm lý học sư phạm về kỹ năng, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng giao tiếp sư phạm, kỹ năng giao tiếp sư phạm mầm non.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học,
bao gồm:
Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các công trình nghiên cứu có
liên quan đến kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu
giáo nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Để đánh giá thực trạng và có
cơ sở để đề xuất biện pháp tâm lý – sư phạm, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
– Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi kết hợp phiếu bài tập tình huống.
– Phương pháp quan sát
– Phương pháp trò truyện – đàm thoại
– Phương pháp phỏng vấn sâu;
10
– Phương pháp thực nghiệm;
– Phương pháp chuyên gia;
– Phương pháp phân tích số liệu bằng thống kê toán học: Sử dụng phần
mềm SPSS 20.0 để xử lý số liệu điều tra, khảo sát, thực nghiệm và hiển thị
kết quả nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của luận án
* Về lý luận:
Hệ thống hóa và xây dựng một số khái niệm cơ bản như: Kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng giao tiếp sư phạm, kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo.
Xác định rõ các biểu hiện và mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm cơ bản
của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo gồm 3 nhóm kỹ năng ( thiết lập mối
quan hệ với trẻ; trao đổi thông tin về nhận thức, tình cảm, hành động, sử dụng
các phương tiên giao tiếp) và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát
triển kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non.
* Về thực tiễn:
Xác định rõ thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm
non với trẻ mẫu giáo thể hiện ở 3 nhóm kỹ năng: thiết lập mối quan hệ với trẻ;
trao đổi thông tin về nhận thức, tình cảm, hành động; sử dụng các phương tiện
giao tiếp đều ở mức trung bình. Mức độ thấp nhất là kỹ năng thiết lập mói
quan hệ với trẻ, đạt mức cao nhất là nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao
tiếp. Trong hai nhóm yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến kỹ năng
giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo thì nhóm yếu tố
chủ quan có ảnh hưởng nhiều nhất.
Kết quả thực nghiệm cho thấy có thể nâng cao kỹ năng giao tiếp sư
phạm cho giáo viên mầm non bằng biện pháp tác động sư phạm: tổ chức tập
11
huấn bồi dưỡng về kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên mầm non với các
nội dung phù hợp, hình thức và phương pháp tổ chức phong phú.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Về lý luận:
Vấn đề kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu
giáo còn có nhiều vấn đề lý luận mới, vì thực tiễn còn ít được nghiên cứu ở Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu này sẽ là tài liệu cho lĩnh vực tâm lý học và giáo dục
học mầm non về cả thực tiễn và lý luận ở nước ta.
* Về thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần thiết thực vào việc nâng cao
hiệu quả giao tiếp sư phạm của người giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo,
qua đó thực hiện tốt quan điểm của Bộ giáo dục và Đào về chuẩn nghề nghiệp
giáo viên mầm non. Theo đó, người giáo viên mầm non không chỉ là người
trông nom trẻ an toàn mà cần có kiến thức kỹ năng sư phạm tốt. Đặc biệt là
kỹ năng giao tiếp sư phạm phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của trẻ, từ đó
xử lý tốt các tình huống xảy ra trong quá trình giáo dục.
Luận án là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu về kỹ
năng giao tiếp sư phạm nói chung và bồi dưỡng, giáo dục, quản lý giáo viên ở
các trường mầm non nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, kết luận, kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công trình nghiên cứu đã công bố,
luận án được trình bày thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo.
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
12
Chương 4: Kết quả nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo.
13
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Vấn đề kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp sư phạm được các nhà
nghiên cứu quan tâm từ rất lâu, cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu, đó chính là cơ sở để chúng tôi thực hiện đề tài của luận án. Khi tổng
quan về các vấn đề liên quan đến luận án, chúng tôi tiến hành hệ thống và
luận giải theo ba nội dung: Các công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
trên thế giới và ở Việt Nam; các công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
sư phạm trên thế giới và ở Việt Nam.
1.1.1. Các nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
1.1.1.1. Các nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của các tác
giả nước ngoài
Vấn đề giao tiếp đã được các tác giả phương Tây và Liên xô cũ đề cập
đến từ khá lâu. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX, vấn đề kỹ năng giao tiếp mới
thực sự được các nhà tâm lý học quan tâm, đặc biệt từ giữa thế kỷ XX, tức là
từ khi ngành điều khiển học ra đời. Theo đó, có thể thấy, kỹ năng giao tiếp
được nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau, cụ thể:
Nghiên cứu mặt kỹ thuật của kỹ năng giao tiếp
Các tác giả theo nghiên cứu này đã xem xét kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động, chủ yếu hướng vào mặt kỹ thuật của hành động. Đại diện cho các nghiên
cứu theo hướng này phải kể đến: Kovaliov A.G, Cruchetxki. V.A, Gonobolin
Ph. N, Henrry S . Các tác giả đều có quan điểm chung rằng kỹ năng là những
phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành
động mà con người đã nắm vững. Vì vậy, khi thực hiện hành động giao tiếp,
con người phải có những tri thức về hành động đó, nghĩa là phải hiểu được mục
đích giao tiếp là gì, cách thức thực hiện, phương tiện giao tiếp, điều kiện hành
động và sử dụng một cách hợp lý vào các tình huống giao tiếp.
14
Chẳng hạn, Gonobolin Ph.N cho rằng: Kỹ năng là những phương thức
tương đối hoàn chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kỳ nào đó. Các
hành động này được hình thành trên cơ sở các tri thức và kỹ xảo – những cái
được con người lĩnh hội trong quá trình hoạt động [40, tr. 95]
Cruchexki V.A cho rằng: Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động
– cái mà con người lĩnh hội được [22]. Tác giả cũng chỉ ra rằng, trong một số
trường hợp thì kỹ năng là phương thức sử dụng các tri thức vào trong thực
hành. Tức là khi có tri thức, con người cần phải áp dụng và sử dụng chúng
trong thực tiễn cuộc sống. Trong quá trình luyện tập, trong hoạt động thực
hành, kỹ năng trở nên được hoàn thiện và trong mối quan hệ đó, hoạt động
của con người cũng trở nên hoàn thiện hơn.
Các tác giả James D.H, Jame G.L, John I.M cho rằng: Kỹ năng giao
tiếp là kỹ thuật, trình độ truyền đạt và tiếp nhận thông tin nhằm thực hiện quá
trình truyền đạt thông tin [dẫn theo 71, tr. 28]. Với quan niệm này, các tác giả
đã đề cao yếu tố truyền đạt thông tin trong quá trình đánh giá kỹ năng giao
tiếp, bỏ qua yếu tố khác như xử lý thông tin, các yếu tố gây nhiễu và khả năng
sử dụng các phương tiện giao tiếp trong những điều kiện hoạt động cụ thể. Đó
cũng chính là điểm hạn chế của quan niệm này.
Như vậy, hướng nghiên cứu này của các tác giả đã cho thấy phương
thức, thủ thuật, thao tác thực hiện hành động giao tiếp là những yếu tố thể
hiện rõ kỹ năng trong quá trình giao tiếp. Chúng tôi đã tiếp nhận, vận dụng
theo hướng nghiên cứu này làm một trong những cơ sở để tiến hành xây dựng
nội dung luận án. Tuy nhiên, chúng tôi cũng khẳng định rằng, kỹ năng giao
tiếp không chỉ là những thao tác kỹ thuật hành vi đơn thuần, mà nó còn chứa
đựng cả các yếu tố khác mới có tính thuyết phục.
Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp như là năng lực của cá nhân
Các tác giả theo hướng nghiên cứu này cho rằng kỹ năng là năng lực của
con người giúp họ thực hiện một hoạt động có hiệu quả trong điều kiện mới. Đại
15
diện là Petrovski A.V, Platonov K.K, Levitov N.D, Barabasicov A.V, Bogxloxki
V.V.[dẫn theo 120, tr. 19].
Bogxloxki V.V cho rằng: Kỹ năng giao tiếp cũng như các kỹ năng
khác, có hai mức độ, đó là kỹ năng sơ đẳng và kỹ năng thành thạo. Kỹ năng
sơ đẳng ban đầu là những hành động – cái được hình thành trên cơ sở của các
tri thức hay là kết quả của sự bắt chước. Còn kỹ năng thành thạo được hình
thành trên cơ sở của các tri thức và kỹ xảo – những cái đã được lĩnh hội trước.
Tác giả Kitty O. L khi nghiên cứu về giao tiếp trong lĩnh vực hành
chính và kinh doanh diễn ra dưới nhiều hình thức như giao tiếp trực tiếp mặt
đối mặt, điện thoại, email…đòi hỏi người nhân viên phải có những kỹ năng
giao tiếp, tương ứng để giao tiếp với cán bộ quản lý trực tiếp, khách hành đến
làm việc, đồng nghiệp và các nhóm khác có quan hệ về mặt lợi ích [dẫn theo
71, tr. 10]. Tác giả nhấn mạnh đến các kỹ năng giao tiếp như: kỹ năng lắng
nghe, kỹ năng viết, kỹ năng trình bày là các kỹ năng có liên quan chặt chẽ đến
kết quả hoạt động của lĩnh vực này. Như vậy, tác giả đã xem xét kỹ năng như
là một biểu hiện năng lực của cá nhân, có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả
của hoạt động.
Tác giả Richard N.J cho rằng, kỹ năng là những hành vi được thể hiện ra
bên ngoài và chịu sự chi phối bởi cách thức con người cảm nhận và suy nghĩ
[142, tr. 10]. Như vậy, tác giả đã xem xét kỹ năng không chỉ là biểu hiện của
năng lực mà còn cả thái độ và động cơ của cá nhân gửi vào trong đó. Cũng theo
hướng này, tác giả Gudykunst W. B. (1997) coi kỹ năng giao tiếp là năng lực
của cá nhân trong việc thực hiện các hành vi giao tiếp một cách phù hợp và có
hiệu quả. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề cao 4 kỹ năng giao tiếp cần có để giao
tiếp có hiệu quả và thành công là: biết quan tâm đến đối tượng giao tiếp, biết
đồng cảm, biết thích ứng, biết đưa ra những phán đoán chính xác.
Như vậy, theo các tác giả trên thì, kỹ năng giao tiếp không chỉ là mặt
kỹ năng thao tác đơn thuần, mà còn liên qua tới kết quả đạt được của quá
trình giao tiếp. Vì vậy, một cá nhân được coi là có kỹ năng giao tiếp khi họ có
16
năng lực nhất định, biết vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào quá trình giao tiếp
đạt kết quả theo mục đích đã đề ra. Theo đó, kỹ năng giao tiếp vừa có tính ổn
định, mềm dẻo lại linh hoạt và có tính mục đích. Tính ổn định ở đây phải thể
hiện ở khả năng thường xuyên giao tiếp tốt trong mọi hoàn cảnh khác nhau,
mọi thời gian, không gian khác nhau. Bên cạnh đó, người có kỹ năng giao tiếp
tốt không phải lúc nào cũng có thái độ, cử chỉ, cách nói năng giống nhau
trong mọi hoàn cảnh, tình huống, mà ở họ luôn có sự thay đổi mềm dẻo cho
phù hợp. Tính mềm dẻ là sự linh hoạt, nhạy cảm, biết điều chỉnh thái độ, hành
vi cho phù hợp với mọi hoàn cảnh, tình huống, đối tượng giao tiếp đạt mục
đích giao tiếp đề ra.
Nghiên cứu quá trình hình thành của kỹ năng giao tiếp
Đại diện cho hướng nghiên cứu này là các nhà tâm lý học mác xít, họ
khẳng định kỹ năng hoạt động không phải hình thành và phát triển theo cơ
chế di truyền sinh vật, mà theo cơ chế lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội lịch sử.
Quá trình hình thành, phát triển kỹ năng giao tiếp cũng là kết quả của quá
trình con người lĩnh hội tri thức, vận dụng chúng vào những điều kiện, hoàn
cảnh và đối tượng giao tiếp khác nhau để có thể đạt được mục đích giao tiếp
đã đề ra. Tiêu biểu cho quan điểm này là Leonchiev A.A, dựa trên các nghiên
cứu của mình, tác giả đã soạn các bài tập luyện kỹ năng định hướng tiền giao
tiếp, luyện kỹ năng tiếp xúc, luyện kỹ năng giao tiếp [dẫn theo 29, tr. 21].
Tác giả Rudic P.A và Theodorson G. cho rằng, ban đầu kỹ năng mới
chỉ là các thao tác riêng lẻ đơn giản, chưa được hoàn thiện, quá trình rèn
luyện chúng trở thành hành động nhanh chóng, chính xác và sau đó trở thành
kỹ năng, kỹ xảo. Tác giả Anderson lại phân biệt 3 giai đoạn tiếp thu kỹ năng,
đó là: Giai đoạn nhận thức (người học tìm cách hiểu thật rõ nhiệm vụ đặt ra
và những thông tin); giai đoạn liên tưởng (những thông tin, thành phần nhận
thức và vận động cần thiết cho sự vận hành của một kỹ năng được kết hợp với
nhau theo đặc điểm hoạt động, kỹ năng dần dần được hình thành; giai đoạn tự
17
lập (kỹ năng ngày càng được tự động hóa nhiều hơn, nhanh chóng và chính
xác hơn, giảm bớt sự chú ý [dẫn theo 120, tr. 21].
Theo Platonop K.K và Golubev G.G (1963), kỹ năng giao tiếp được
hình thành và phát triển qua 5 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Con người ý thức được mục đích hành động và tìm kiếm
cách thức thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết và kỹ xảo sinh hoạt đời
thường, hành động bằng thử và sai.
– Giai đoạn 2: Biết cách làm nhưng không đầy đủ. Con người có hiểu
biết về phương thức hành động, sử dụng các kỹ xảo đã có, nhưng chưa phải là
kỹ xảo chuyên biệt dành cho hoạt động này.
– Giai đoạn 3: Có những kỹ năng chung nhưng còn mang tính chất độc
lập. Các kỹ năng này cần thiết cho các dạng hoạt động khác nhau.
– Giai đoạn 4: Có kỹ năng phát triển cao, con người biết sử dụng vốn
hiểu biết và kỹ xảo đã có. Họ không chỉ ý thức được mục đích mà còn ý thức
được động cơ, lựa chọn cách thức để đạt được mục đích.
– Giai đoạn 5: Hình thành kỹ năng khác nhau. Có nghĩa là con người
không chỉ sử dụng các kỹ năng đã được hình thành ở mức độ thuần thục, điêu
luyện mà còn sáng tạo trong khi thực hiện [dẫn theo 85, tr. 108].
Tác giả Robert N. L cho rằng, kỹ năng giao tiếp chính là chìa khóa cho
việc xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa con người với con người, người có
kỹ năng giao tiếp là người luôn duy trì được trạng thái ưu thế trong bất kỳ tình
huống giao tiếp nào, tức là luôn đảm bảo được sự thảo mãn giữa tất cả các bên
tham gia giao tiếp. Tác giả cũng đề ra được 9 yêu cầu để có được kỹ năng giao
tiếp: Luôn lạc quan; luôn chủ động; biết quan tâm đến mọi người; giữ nụ cười
trên môi; gọi người khác bằng tên riêng; lắng nghe; sẵn lòng giúp đỡ; suy nghĩ
trước khi hành động; luôn duy trì trạng thái giao tiếp thắng – thắng.
Như vậy, tác giả trên đã chỉ ra các kỹ năng giao tiếp rất cụ thể, mang
tính ứng dụng cao trong quá trình đào tạo, rèn luyện, thực hiện và đánh giá.
18
Để có được các kỹ năng này, đòi hỏi các cá nhân vừa phải có năng lực thực
hiện, vừa phải thường xuyên rèn luyện để duy trì.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của các tác
giả trong nước
Ở Việt Nam, vấn đề kỹ năng giao tiếp được nghiên cứu với nhiều hướng
khác nhau, phải kể đến các tác giả tiêu biểu nghiên cứu về vấn đề này như
Hoàng Anh, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Thạc, Trần Quốc Thành, Nguyễn
Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Nguyễn Bá Minh …và một số nhà khoa học
khác. Tuy nhiên, các tác giả Hoàng Anh, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Thạc ….đi
sâu vào nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm, vì vậy chúng tôi sẽ bàn đến
quan điểm và các công trình của các tác giả này ở phần sau.
Tác giả Nguyễn Văn Lũy quan niệm, kỹ năng giao tiếp là khả năng cụ
thể của mỗi con người vận dụng những kiến thức thu được vào quá trình tiếp
xúc giữa người với người [85, tr. 82].
Theo tác giả Nguyễn Bá Minh, quá trình giao tiếp gồm các nhóm kỹ
năng sau:
– Nhóm kỹ năng lập kế hoạch giao tiếp, gồm: Nhóm kỹ năng nhận thức;
nhóm kỹ năng thiết kế.
– Nhóm kỹ năng thực hiện kế hoạch giao tiếp, gồm: Nhóm kỹ năng tổ
chức điều khiển; nhóm kỹ năng giao tiếp.
– Nhóm kỹ năng đánh giá cuộc giao tiếp gồm các kỹ năng: Kỹ năng đánh
giá mức độ hứng thú của đối tượng giao tiếp; kỹ năng đánh giá những điều
kiện khách quan và chủ quan khi tổ chức cuộc giao tiếp; kỹ năng đánh giá
mức độ nắm vấn đề, nội dung cuộc giao tiếp; kỹ năng đánh giá những mặt
mạnh, hạn chế của bản thân; kỹ năng điều chỉnh khắc phụ hạn chế của bản
thân ở những lần giao tiếp sau [92]. Như vậy, theo tác giả Nguyễn Bá Minh,
19
kỹ năng giao tiếp được biểu hiện cả ở trước, trong và sau khi quá trình giao
tiếp kết thúc.
Tác giả Trần Quốc Thành cho rằng, quy trình hình thành kỹ năng đi từ
hình thành nhận thức về mục đích, cách thức, điều kiện hành động tới việc
quan sát và làm thử, cuối cùng là luyện tập để tiến hành hành động theo đúng
yêu cầu nhằm đạt được mục đích đề ra [118, tr. 38]. Trong luận án “Kỹ năng
tổ chức trò chơi của chi đội trưởng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”,
Trần Quốc Thành cho rằng, hệ thống kỹ năng tổ chức rất phong phú, được thể
hiện trong 5 thành phần: Nhận thức; Thiết kế; Thi công – phối hợp; Giao tiếp;
Thực hiện nhiệm vụ. Các thành phần này có mối quan hệ chặt chẽ, chi phối
lẫn nhau trong quá trình tổ chức hoạt động [118].
Khi nghiên cứu về kỹ năng và kỹ năng giao tiếp, Phạm Tất Dong và
Trần Trọng Thủy đã nhấn mạnh có 4 giai đoạn hình thành kỹ năng:
– Giai đoạn thứ nhất: Được gọi là giai đoạn hình thành kỹ năng sơ bộ.
Con người trước khi hành động phải nhận thức được hành động. Dựa vào kỹ
năng kỹ xảo đã nắm được để tìm kiếm phương thức hoạt động. Ở giai đoạn
này hoạt động diễn ra theo kiểu “thử và sai”.
– Giai đoạn thứ hai: Con người đã có những tri thức về phương thức
thực hiện hoạt động và sử dụng được những kỹ xảo đã có. Đây là giai đoạn
hoạt động với những kỹ năng chưa thành thạo.
– Giai đoạn thứ 3: Con người có được những kỹ năng chung, cần thiết cho
mọi hoạt động khác nhau. Đây là điều kiện không thể thiếu được để hình thành kỹ
năng chuyên môn. Trên cơ sở kỹ năng chung, con người sẽ sử dụng một cách
sáng tạo những tri thức và kỹ xảo cần thiết trong quá trình hoạt động. Đây là giai
đoạn kỹ năng phát triển cao.