Khuyến mại là gì ? Đặc điểm, các hình thức và thủ tục khuyến mại
Quy định pháp luật về khuyến mại (khuyến mại là gì ?), Đặc điểm của hoạt động khuyến mại ? Các cách thức khuyến mại hợp pháp tại Việt Nam ? Các trường hợp phải đăng ký khuyến mại và điều cấm trong hoạt động khuyến mại hiện nay ? … sẽ được bài viết phân tích cụ thể:
Mục Lục
1. Khái niệm khuyến mại
Dưới góc độ ngôn ngữ, “khuyến mại” hay “khuyến mãi” được hiểu là hành vi khuyên khích việc bán hàng, mua hàng. “Mãi” là mua, “mại” là bán. Do việc mua bán được tiến hành đồng thời nên cả hai thuật ngữ “khuyến mại” hay “khuyến mãi” đều có thể sử dụng được. Tuy nhiên, với góc độ tiếp cận là hành vi của thương nhân nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ hơn việc bán hàng, cung ứng dịch vụ, thuật ngữ “khuyến mại” được sử dụng trong pháp luật thương mại Việt Nam là chính xác và phù hợp.
Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Có thể thấy, cách thức thực hiện xúc tiến thương mại, cách thức tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Đây chính là dấu hiệu phân biệt hành vi khuyến mại với các hành vi xúc tiến thương mại khác.
2. Phân tích đặc điểm của khuyến mại
Với tính chất là hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, khuyến mại có các đặc điểm cơ bần sau đây:
– Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân. Để tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại cho thương nhân khác để kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ.
– Cách thức xúc tiến thương mại: là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Tuỳ thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tuỳ thuộc vào trạng thậi cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tuỳ thuộc điều kiện kinh phí dành cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá… Khách hàng được khuyến mại có thể là người tiêu dùng hoặc các trung gian phân phối, tuỳ thuộc từng chương trình khuyến mại.
– Mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ. Đê thực hiện mục đích này, các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu một sản phẩm mới, kých thích trung gian phân phối chú ý hơn nữa đến hàng hoá của doanh nghiệp, tăng lượng hàng đặt mua… thông qua đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hàng hoá, dịch vụ.
3. Các hình thức khuyến mại
Có nhiềụ cách thức khác nhau để thương nhân dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Lợi ích mà khách hàng được hưởng thường là lợi ích vật chất (tiền, hàng hoá, hay được cung ứng dịch vụ miễn phí). Hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại và hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại phải là những hàng hoá dịch vụ được kinh doanh hợp pháp.
Pháp luật thương mại quy định thương nhân được thực hiện các hình thức khuyến mại phổ biến sau đây:
3.1 Khuyến mại qua hàng mẫu
Thực hiện cách thức này, thương nhân đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Thông thường, hàng mẫu được sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu một sản phẩm mới hoặc sản phẩm đã cải tiến, do vậy, hàng mẫu đưa cho khách hàng dùng thử là hàng đang bán hoặc sẽ được bán trên thị trường.
3.2 Khuyến mại bằng quà tặng
Thương nhân được phép tặng hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền để thực hiện mục tiêu xúc tiến thương mại. Tặng quà thường được thực hiện đối với khách hàng có hành vi mua sắm hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ của thương nhân. Hàng hoá, dịch vụ dùng làm quà tặng cỗ thể là hàng hoá, dịch vụ mà thương nhân đang kinh doanh hoặc là hàng hoá, dịch vụ của thương nhân khác. Việc luật pháp cho phép sử dụng hàng hoá, dịch vụ của thương nhân khác để phát tặng tạo điều kiện khuyến khích sự liên kết xúc tiến thương mại của các thương nhân nhằm khai thác lợi ích tối đa. Việc tặng quà trong trường họp này không chỉ có ý nghĩa thúc đẩy hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ, mà còn là cơ hội để thương nhân quảng cáo, giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ của nhau.
3.3 Khuyến mại bằng hình thức giảm giá
Giảm giá là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng dịch vụ bình thường trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại mà thương nhân đã đăng ký hoặc thông báo. Nếu hàng hoá, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Khi khuyến mại theo cách thức này, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống hành vi bản phá giá, luật pháp thường có quy định giới hạn mức độ giảm giá (gọi chung là hạn mức giảm giá, hạn mức khuyến mại). Việc giới hạn này là cần thiết để đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, khách hàng và của thương nhân khác, bởi những đợt giảm giá sâu, trong thời gian dài có thể dẫn tới khó khăn, khủng hoảng của thưoưg nhân ở cùng thị trường liên quan. Mức độ giảm giá cụ thể do pháp luật hiện hành quy định.
– Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi
Theo các chương trình này, khách hàng có thể được hưởng lợi ích nhất định theo những phương thức khác nhau. Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hoặc có mệnh giá nhất định để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng dịch vụ miễn phí, theo điều kiện do nhà cung ứng dịch vụ đưa ra. Khác với điều này, phiếu dự thi có thể mang lại giải thưởng hoặc không mang lại lợi ích gì cho khách hàng, phụ thuộc vào kết quả dự thi của họ.
– Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng
Các sự kiện này được tổ chức gắn liền hoặc tách rời với việc mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ của khách hàng, ví dụ: các chương trình mang tính may rủi mà khách hàng trúng thưởng hoàn toàn do sự may mắn. Bốc thăm, cào số trúng thưởng, bóc, mở sản phẩm trúng thưởng, vé so dự thưởng… là các sự kiện được tổ chức gắn liền với hành vi mua sắm. Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hoá, nghệ thuật, giải trí… có thể là lợi ích phi vật chất mà thương nhân dành khuyến mại cho khách hàng, cũng có thể nhằm hướng tới khách hàng mục tiêu của thương nhân. Ngoài các sự kiện trên đây, thương nhân có thể tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.
Ngoài ra, pháp luật không cấm thương nhân sử dụng các hình thức khác để khuyến mại nhưng khi tiến hành phải tuân thủ quy định về thủ tục thực hiện, ví dụ, phải được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận (thường được quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại ở thời điểm thực hiện).
về lý thuyết, lợi ích mà khách hàng nhận được thông qua khuyến mại có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Lợi ích vật chất được xác định theo đơn giá sản phẩm được tặng cho hoặc được trao thưởng do mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ của thương nhân. Lợi ích phi vật chất có thể là việc thụ hưởng (miễn phí) giá trị văn hoá, nghệ thuật, tinh thần. Tuỳ thuộc mức độ ảnh hưởng của các hình thức khuyến mại đến môi trường kinh doanh, đến lợi ích của khách hàng, lợi ích của thương nhân khác, nhà nước có những quy định khác biệt về điều kiện thủ tục thực hiện khuyến mại.
4. Thủ tục đăng ký chương trình khuyến mại
Tuỳ thuộc mức độ ảnh hưởng của các hình thức khuyên mại đến môi trường kinh doanh, đến lợi ích của khách hàng, lợi ích của thương nhân khác, pháp luật quy định các thủ tục khác nhau để thực hiện khuyến mại. xếp theo mức độ tăng dần về tính phức tạp của thủ tục khuyến mại, pháp luật quy định có ba loại thủ tục thực hiện khuyến mại mà thương nhân phải thực hiện một trong ba thủ tục là:
– Thủ tục thông báo thực hiện hoạt động khuyến mại.
Thủ tục thông báo thực hiện hoạt động khuyến mại được áp dụng đối với hầu hết các hình thức khuyến mại như hàng mẫu, quà tặng, giảm giá và bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ. Theo thủ tục này, thương nhân thực hiện khuyến mại chỉ cần gửi thông báo bằng văn bản về chương trình khuyến mại đến cơ quan quản lý nhà nước về thương mại nơi tổ chức khuyến mại (Sở Công thương) trước khi thực hiện khuyến mại, không cần chờ đợi sự cho phép hay chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
– Thủ tục đăng ký thực hiện hoạt động khuyến mại.
Theo thủ tục này, thương nhân thực hiện khuyến mại phải tiến hành đăng ký thực hiện chương trình khuyến mại tại cơ quan quản lý nhà nước về thương mại có thẩm quyền và chỉ được thực hiện chương trình khuyến mại khi nhận được văn bản xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật hiện hành quy định khi thực hiện hình thức khuyến mại bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi phải đăng ký thực hiện hoạt động khuyến mại tại Sở Công thương (trường hợp khuyến mại trên địa bàn một tỉnh) và Bộ Công Thương (trường hợp khuyến mại trên địa bàn nhiều tỉnh).
Khi hết thời hạn trao giải thưởng của chương trình khuyến mại, thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại phải có văn bản báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về thương mại có thẩm quyền về kết quả chương trình khuyến mại và thông báo công khai kết quả trúng thưởng.
– Thủ tục xin phép thực hiện hoạt động khuyến mại.
Thủ tục này đòi hỏi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, song chỉ áp dụng đối với những hoạt động khuyến mại được thực hiện theo sự sáng tạo của thương nhân và pháp luật chưa có quy định cụ thể. Hiện tại, Bộ Công Thương là cơ quan có thẩm quyền xem xét, chấp thuận đối với trường họp này.
5. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt động khuyến mại
Quyền tự do kinh doanh cho phép thương nhân được áp dụng các kĩ thuật thuyết phục khác nhau để tăng cường cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ. Khi tổ chức hoạt động khuyến mại, thương nhân có quyền:
– Lựa chọn hình thức, thời gian, địa điểm khuyến mại;
– Quy định những lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng;
– Thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình;
– Tự mình tổ chức thực hiện các hình thức khuyến mại theọ quy định của pháp luật.
Thương nhân tổ chức hoạt động khuyến mại có các nghĩa vụ cơ bản sau đây:
– Thực hiện đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục pháp lý cần thiết để thực hiện các hình thức khuyến mại;
– Thông báo công khai các nội dung, thông tin về hoạt động khuyến mại cho khách hàng. Khi áp dụng các hình thức khuyến mại, để tránh hành vi gian lận, lừa dối khách hàng, pháp luật đòi hỏi sự minh bạch của thương nhân. Tại nợi bán hàng, nơi cung ứng dịch vụ, trên bao bì sản phẩm hoặc dưới bất kì hình thức nào khác nhung phải đính kèm theo hàng hoá được bán… thương nhân phải công khai hoá các nội dung của hoạt động khuyến mại, thường là các nội dung:
+ Tên của hoạt động khuyến mại;
+ Giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ khuyến mại và các chi phí có liên quan để giao hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại cho khách hàng;
+ Tên, địa chỉ, số điện thoại của thương nhân thực hiện khuyến mại;
+ Thời gian khuyến mại, ngày bắt đầu, ngày kết thúc và địa bàn hoạt động khuyến mại;
+ Trường hợp lợi ích của việc tham gia khuyến mại gắn với các điều kiện cụ thể thì trong thông báo phải nêu rõ hoạt động khuyến mại đó có kèm theo điều kiện và nội dung cụ thể của các điều kiện.
Ngoài các thông tin hên đây, tuỳ thuộc chương trình khuyến mại, thương nhân có thể còn phải công khai các thông tin khác liên quan đến từng loại hoạt động khuyến mại, Ví dụ như:
+ Giá trị bằng tiền hoặc lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng từ phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ; địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ và các loại hàng hoá, dịch vụ mà khách hàng có thể nhận được từ phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ đối với hình thức khuyến mại có sử dụng phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ;
+ Loại giải thưởng và giá trị của từng loại giải thưởng; thể lệ tham gia các chương trình khuyến mại, cách thức lựa chọn người trúng thưởng đối với các hình thức khuyến mại có sử dụng phiếu dự thỉ để trao thưởng, các chương trình trao thưởng mang tính may rủi;
+ Các chi phí mà khách hàng phải tự chịu đối với các chương trình khách hàng thường xuyên, chương trình văn hoá, nghệ thuật, giải trí hoặc các sự kiện khác mà khách hàng được tham gia…
– Nghĩa vụ thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng.
– Tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ khuyến mại đã ký kết.
– Các nghĩa vụ khác (ví dụ: trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng đối với các hình thức trao thưởng mang tính may rủi).
6. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại
Khuyến mại là quyền của thương nhân trong hoạt động kinh doanh. Cơ hội thương mại mà thương nhân khuyến mại có được là vấn đề “nhạy cảm” vì nó có thể tạo ra những khó khăn cho thương nhân khác, có thể “đụng chạm” đến lợi ích của khách hàng và tính lành mạnh của môi trường kinh doanh. Để ngăn ngừa những tác động tiêu cực này, một số hoạt động khuyến mại bị Nhà nước cấm thực hiện (theo luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành):
– Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ bị hạn chế kinh doanh, hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng;
– Sử dụng hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ bị hạn chế kinh doanh, hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng;
– Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi.
– Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức.
– Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng.
– Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác.
– Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.
– Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
– Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
– Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định của pháp luật.
– Sử dụng thuốc chữa bệnh cho người, kể cả các loại thuốc đã được phép lưu thông để khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại cho thương nhân kinh doanh thuốc.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập từ các nguồn trên internet)