Khủng hoảng kinh tế là gì? Nguyên nhân chủ yếu và ảnh hưởng?

Khủng hoảng kinh tế là gì? Nguyên nhân chủ yếu gây khủng hoảng kinh tế? Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế?

    Như chúng ta đã biết thì cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm cho kinh tế thị trường và các nước có sự biến đổi nghiêm trọng cả về xã hội và gây ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội. Vậy thực chất để xảy ra cuộc khủng hoảng về kinh tế này thì nguyên nhân từ đâu mà ra? Đây vẫn là thắc mắc khiến nhiều người vẫn chưa hiểu được. Bài viết dưới đây chúng tôi xin giải đáp chi tiết về nội dung này.

    1. Khủng hoảng kinh tế là gì?

    Theo Mác Lenin thì khủng hoảng kinh tế là sụ suy giảm, suy thoái các hoạt động kinh tế ngày theo chiều hướng kéo dài và trầm trọng hơi cả những vấn đề suy thoái trong chu kì kinh tế trước kia. Khi đó, khủng hoảng kinh tế là vấn đề do sự xung đột giữa các tầng lớp nhân dân trong xã hội với nhau, mâu thuẫn này đang trở lên vô cùng nghiêm trọng, đồng thời nó cũng chính là tác nhân gây ra quá trình tích tụ tư bản mới hiện nay.

    Khủng hoảng kinh tế tiếng anh là “Economic Crisis”.

    2. Nguyên nhân chủ yếu gây khủng hoảng kinh tế:

    Khủng hoảng kinh tế là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng hoá ứ đọng, không thể tiêu thụ được, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ. Chính điều này đã dẫn đến nguy cơ đóng cửa của các nhà máy, xí nghiệp. Nhiều người lao động thất nghiệp hàng loạt, lương thấp, bỏ việc đồng loạt. Các công ty tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản ,lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây chính là nguyên nhân nào dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.

    Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế này bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

    Trong phương thức trước chủ nghĩa tư bản vẫn thường xảy ra những biến động trong đời sống kinh tế. Những biến động này là do thiên tai, dịch tễ, hoặc chiến tranh gây lên làm cho sản xuất bị tàn phá, nhân dân bị đói là do thiếu thốn về sản phẩm. Các nhà kinh tế học tư sản đã giải thích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế là do mất cân đối “ngẫu nhiên” giữa các ngành sản xuất hoặc do tiêu dùng “tạm thời” không theo kịp sản xuất. Dựa trên kết luận vu vơ ấy họ bày ra trăm phương nghìn kế “cứu chữa” cho chủ nghĩa tư bản thoát khỏi cái tai hoạ ghê gớm. Nào là thực hiện “kinh tế chỉ huy”, nào là “công quỹ đặc biệt” cho hàng hoá xuất khẩu, nào là đi xâm chiếm thị trường nước ngoài, hàng hoá bán chịu…

    Mặc dù có thay đổi phương thuốc chủ nghĩa tư bản, từ hơn một thế kỷ nay, nó vẫn cứ định kỳ, không những không thuyên giảm mà ngày một trầm trọng thêm lên. Từ 1925 là năm nổ ra cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản cho đến nay. It nhất chủ nghĩa tư bản trải qua 16 lần khủng hoảng.

    Những cuộc khủng hoảng này bao trùm toàn bộ thế giới tư bản hoặc xảy ra ở một số nước tư bản.
    ở Anh năm 1925 nổ ra cuộc khủng hoảng có tính chất toàn quốc đầu tiên thì
    11năm sau tức là năm 1936 nổ ra cuộc khủng hoảng thứ hai. Năm1947-1948 nổ ra cuộc khủng hoảng thứ ba. Về cơ bản là khủng hoảng thế giới đầu tiên trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Năm 1957 nổ ra cuộc khủng hoảng thứ 4 bao trùm các nước chủ yếu của lục địa Châu Âu có cả Anh và Châu Mĩ. Các cuộc khủng hoảng tiếp sau là: 1866, 1873, 1882, 1890, 1920-1921, 1929-1933: là thảm hoạ của chủ nghĩa tư bản, 1957,1948-1949…liên tiếp nổ ra ở các nước tư bản chủ nghĩa.

    Khủng hoảng kinh tế là hiện tượng riêng chủ nghĩa tư bản mới có và đã là cố tật thì không thể nào cứu chữa được thì nguyên nhân không thể đi tìm ở những nhân tố bên ngoài, ngẫu nhiên. Nguyên nhân của nó chỉ có thể là mâu thuẫn đối kháng mà nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay từ khi ra đời vốn đã mang trong lòng nó.

    Trước hết phaỉ kể đến mâu thuẫn giữa tính tổ chức của sản xuất ở trong từng xí nghiệp riêng rẽ và tình trạng vô chính phủ của sản xuất trong phạm vi toàn xã hội. Mâu thuẫn này tạo ra tình trạng vô chính phủ cực kỳ nghiêm trọng, mọi người đều biết không chỉ riêng chủ nghĩa tư bản mới có tình trạng sản xuất vô chính phủ.

    Bất cứ hàng hoá nào dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đều có chung đặc điểm này. Ơ đây người sản xuất đều sản xuất theo ý mình không ai biết thị trường cần đến loại hàng hoá nào và cần bao nhiêu. Chỉ đến khi mang ra thị truờng thì số phận của hàng hoá mới được định đoat, hàng hoá có thể bán được hoặc không bán được, nếu nó không đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

    Như vậy tình trạng vô chính phủ của sản xuất hàng hoá đã ấp ủ sẵn khả năng khủng hoảng. Vì vậy, những gián đoạn về tiêu thụ do tình trạng vô chính phủ của sản xuất hàng hoá gây ra chưa thể dẫn tới một sự đổ vỡ bao trùm toàn bộ nền sản xuất. Tình thế luôn luôn bị đảo lộn.

    Tình trạng mất cân đối giữa các ngành sản xuất với tiêu dùng. Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng sản sinh ra từ bản chất của chủ nghĩa tư bản.

    Sản xuất vô chính phủ không phải là nguồn gốc duy nhất của cuộc khủng hoảng. Chỉ khi nào khối lượng sản xuất vượt xa sức mua của người tiêu dùng thì khi đó tình trạng mất cân đối do sản xuất vô chính phủ gây ra mới dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng, do tác dụng của mâu thuẫn giữa khuynh hứơng mở rộng sản xuất một cách vô hạn của chủ nghĩa tư bản và sức mua giới hạn của người tiêu dùng.

    Vì lòng thèm khát lợi nhuận vô hạn mỗi nhà tư bản đều ra sức tích luỹ để mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật nhằm tung ra thị truờng những khối lượng hàng hoá ngày càng lớn. Trong khi đó thì chính sự tích luỹ của tư bản không những gây ra hậu quả bần cùng hoá nhân dân lao động và tạo ra một đám nhân khẩu thừa tương đối ngày càng đông. Vì vậy sức mua của quần chúng lao động, những người tiêu dùng chủ yếu trong xã hội ngày càng giảm đi, thiếu người tiêu dùng.

    Hàng hoá không phải thừa tuyệt đối bởi vì nó còn xa mới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Hàng hoá chỉ thừa tương đối, thừa so với sức mua còn thấp kém của xã hội.

    Như vậy khủng hoảng sản xuất thừa còn gắn liền với mâu thuẫn đối kháng giữa lao động và tư bản. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản có nghĩa là sự tước đoạt tư liệu sản xuất từ tay những người sản xuất và biến họ thành vô sản, suốt đời đi làm thuê.
    Đó là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản. Sự tách rời giữa hai nhân tố của quá trình sản xuất (tư liệu sản xuất và người tiêu dùng) là sự đối lập giữa tư bản và lao động. Như vậy khủng hoảng sản xuất thừa bắt nguồn từ những mâu thuẫn đối kháng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này đều sản sinh ra trên cơ sở của chế độ chiếm hưu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa sản xuất và tính chất xã hội và chiếm hữu có tính chất tư bản chủ nghĩa.

    Chủ nghĩa tư bản ra đời đã tập trung tư liệu sản xuất vào tay những nhà tư bản và biến tư liệu sản xuất cá nhân nhỏ mọn âý thành những tư liệu sản xuất xã hội. Khủng hoảng nổ ra vào lúc sản xuất đạt tới mức điểm cao nhất, lúc mà tình trạng mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng đã tích luỹ đến độ nghiêm trọng. Một khi mà dòng lưu thông đã đầy ứ hàng hoá thì nó có thể bị phá tung ra ở bất cứ chỗ nào một cách vô cùng đột ngột

    3. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế:

    Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng mạnh đến các nền kinh tế Bắc Âu, khiến khu vực này chịu nhiều rủi ro. Là những nền kinh tế mở cửa, có quy mô nhỏ, các nước Bắc Âu được hưởng lợi mạnh mẽ từ tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu, do vậy trong bối cảnh thương mại và đầu tư quốc tế giảm trong ba năm qua, các nền kinh tế Bắc Âu chịu nhiều tác động nặng nề.

    Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có những tác động tiêu cực đến hệ thống an sinh xã hội Bắc Âu trên nhiều phương diện. Cuộc khủng hoảng tác động đến thị trường lao động, sức khỏe, thu nhập, nhà ở, việc làm, khiến người dân phải chịu nhiều tổn thương khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, đồng thời dẫn đến chi tiêu cho an sinh xã hội trong khủng hoảng gặp nhiều thách thức hơn nhằm bảo đảm sự ổn định xã hội.

    Với chức năng đem lại lợi ích an sinh xã hội   cho tất cả mọi người, từ trẻ em, cha mẹ, người già, người mất việc làm, chăm sóc sức khỏe vật chất và tinh thần, các nhà nước phúc lợi Bắc Âu gặp gánh nặng rất lớn về kinh phí và nguồn lực bởi hai lý do sau:

    Thứ nhất, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng trong thời kỳ khủng hoảng 2008 – 2012 dẫn đến các nguồn quỹ bảo đảm an sinh xã hội và chi tiêu nhà nước cho bảo trợ xã hội tăng lên nhanh chóng.

    Thứ hai, do tăng trưởng kinh tế thấp, sự tham gia của người dân trên thị trường lao động giảm, mức lương cho người lao động bị hạ thấp, đã dẫn đến tình trạng nhà nước không có khả năng thu thuế từ người lao động để bù đắp cho việc mở rộng chi tiêu an sinh xã hội

    Tổng quan thì ở Bắc Âu, phúc lợi xã hội vừa là gánh nặng, vừa là nguồn lực, bởi đó là nguồn chi cơ bản cho phát triển cơ sở hạ tầng, giáo dục, trợ cấp thất nghiệp và tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Nhưng khủng hoảng nợ công ở châu Âu đang làm chậm lại tăng trưởng kinh tế ở Bắc Âu, cùng với sự già hóa dân số khiến ngân sách chi cho phúc lợi xã hội ngày càng tăng, tạo áp lực cho nền kinh tế. Các nước Bắc Âu đang thực thi nhiều biện pháp để giải quyết bài toán gánh nặng phúc lợi xã hội và thách thức tăng trưởng kinh tế. Phần Lan tăng tuổi nghỉ hưu để tăng nguồn cung lao động, đầu tư vào nền kinh tế xanh và cải thiện hiệu quả khu vực công. Tại Thụy Điển, tuổi nghỉ hưu đã bị đẩy lùi đến 63 tuổi và thời gian đóng góp vào quỹ hưu bổng được kéo dài thêm. Ngày nay, Thụy Điển là nước số một trên thế giới trong lĩnh vực tạo công ăn việc làm cho người cao tuổi. Khu vực Nhà nước ở Thụy Điển cũng phải chịu một số biện pháp thắt lưng buộc bụng qua những luật lệ nghiêm ngặt hơn về ngân sách. Đan Mạch tiến hành cải cách chế độ phúc lợi.