Khái niệm về vi phạm pháp luật – Kiến thức

Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả xấu cho xã hội. Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng, nó giúp cho việc nhận diện hiện tượng xã hội này, phân biệt chúng với các hiện tượng lệch chuẩn khác, từ đó có các biện pháp có hiệu quả để ngăn ngừa, giảm thiểu hiện tượng này trong đời sống.

I- KHÁI NIỆM VI PHẠM PHÁP LUẬT.

Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có pháp luật. Qua các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có sự khác nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triến của đời sống xã hội, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy đủ và chính xác hơn.

II- CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN NHẬN BIẾT VI PHẠM PHÁP LUẬT.

Theo đó, một hiện tượng xã hội bị coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản sau:

(i) Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người.

Hành vi là xử sự của con người trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó.

Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi con người nhằm xác lập và duy trì trật tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể hiện quan điểm của mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một hành vi cụ thể nào đó. Do vậy, phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay không. Vi phạm pháp luật không phải là suy nghĩ, ước mơ, giấc mơ của con người hay những sự biến xảy ra nằm ngoài ý thức của con người… Vi phạm pháp luật phải là kết quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan bằng hành vi thực tế cụ thể.

(ii) Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật.

Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu cho cách xử sự của con người, thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào… Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đúng cách thức mà pháp luật yêu cầu. Sự quy định trước của pháp luật là cơ sở pháp lí để xác định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể. Một hành vi nào đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng nếu chưa được pháp luật quy định thì không bị coi là vi phạm pháp luật.

Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong xã hội, trái phong tục tập quán… nhưng không trái pháp luật không phải là vi phạm pháp luật.

(iii) Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm phảp lí thực hiện.

Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ tuổi do pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí khác nhau. Khả năng nhận thức ở đây được hiểu là, chủ thể nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm… Khả năng điều khiển được hiểu là, trên cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện hành vi mà họ cho là phù họp với đòi hỏi của xã hội; kiềm chế, không thực hiện hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích của xã hội… Thông thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người phát triển dần dần cùng với sự trưởng thành về tuổi tác của họ. Chính vì vậy, pháp luật của các nhà nước đều lấy dấu hiệu độ tuổi để phản ánh khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể. Bên cạnh đó, sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí còn phản ánh chính sách pháp luật của một nhà nước cụ thể. Bởi lẽ, sự chênh lệch không lớn về độ tuổi không phản ánh rõ nét sự khác biệt trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người. Các nhà nước khác nhau có thể có sự quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí một cách khác nhau, điều đó thể hiện mức độ nhân đạo trong pháp luật của các nhà nước.

Trên thực tế, nhiều trường hợp mặc dù đã đạt đến độ tuổi luật định nhưng vì những lí do khác nhau dẫn đến bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nên cũng được coi là không có năng lực trách nhiệm pháp lí.

(iv) Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể.

Trong đời sống hàng ngày, lỗi được hiểu là điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động.  Theo đó, lỗi được đồng nhất với hành vi, đó là những hành vi sai sót, hành vi không nên có, không đáng có. Trong khoa học pháp lí, lỗi là trạng thái tâm lí phản ánh thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái pháp luật của họ và hậu quả của hành vi đó. Như vậy, lỗi trong khoa học pháp lí không phải là bản thân hành vi mà là thái độ của chủ thể đối với hành vi của chính mình và hậu quả của hành vi ấy. Lỗi trong khoa học pháp lí chỉ được đặt ra khi chủ thể có hành vi trái pháp luật.

Trạng thái tâm lí của chủ thể khi thực hiện một hành vi có thể là vui, buồn, lo lắng, sợ hãi, tức giận, tích cực hoạt bát, thờ ơ lãnh đạm, nhận thức được hay không nhận thức được, mong muốn, không mong muốn… Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự khác phù họp với các quy định của pháp luật. Như vậy, không phải mọi trường hợp chủ thể có hành vi trái pháp luật cũng đều bị coi là có lỗi. Một hành vi mặc dù trải pháp luật nhưng được thực hiện trong trường hợp chủ thể không có sự lựa chọn nào khác (bất kì ai trong điều kiện đó cũng chỉ có thể có sự lựa chọn như thế) hoặc trong trường hợp chủ thể bị mất tự do ý chí thì chủ thể không bị coi là có lỗi, do vậy hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật.

Tóm lại, các dấu hiệu trên đây là cơ sở nhận diện vi phạm pháp luật. Một hiện tượng cụ thể xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu nêu trên. Do vậy, có thể khẳng định, mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật, nhưng không phải tất cả hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện trong trường họp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật.

Từ những phân tích trên, có thể xác định vi phạm pháp luật là hành vỉ trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lÍ thực hiện, xầm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

Xem thêm: Khái quát về trách nhiệm pháp lý.

III- PHÂN LOẠI VI PHẠM PHÁP LUẬT 

Vi phạm pháp luật xảy ra rất đa dạng, phức tạp, việc phân loại vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Trong khoa học pháp lí hiện nay, có nhiều cách để phân loại vi phạm pháp luật, mỗi cách dựa trên những căn cứ nhất định.

Căn cứ vào khách thể của vi phạm có thể chia vi phạm pháp luật thành các loại tương ứng với các loại quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Theo đó, vi phạm pháp luật có thể bao gồm các loại: vi phạm pháp luật về đất đai, vi phạm pháp luật về tài chính, ngân hàng, vi phạm pháp luật về môi trường, vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình… 

Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm có thể chia vi phạm pháp luật thành hai loại là tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức cao nhất. Các vi phạm pháp luật khác có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hon tội phạm.

Theo quan điểm truyền thống, vi phạm pháp luật được chia thành bốn loại là vi phạm hình sự, vi phạm hành chính, vi phạm kỉ luật nhà nước và vi phạm dân sự. Cơ sở của sự phân loại này là tống họp các yếu tố bao gồm khách thể, hậu quả, phương pháp, cách thức thực hiện hành vi, chủ thể…

Vi phạm hình sự (tội phạm) là hành vi trái pháp luật được quy định trong pháp luật hình sự, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại những quan hệ xã hội quan trọng nhất, theo quy định của pháp luật phải bị xử lí hình sự.

Ở Việt Nam hiện nay, tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự.

Vỉ phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do cá nhân, tổ chức có năng lực pháp lí thực hiện, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không bị coi là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lí hành chính.

Có thể nói, vi phạm hành chính là loại vi phạm có tính nguy hiếm cho xã hội thấp hơn tội phạm. Điều này về cơ bản có thể được thế hiện trên hai khía cạnh, một là, khách thể của vi phạm hành chính có tầm quan trọng đối với đời sống xã hội thấp hơn so với khách thể của tội phạm, hai là, tính chất và mức độ thiệt hại cho xã hội do vi phạm hành chính gây ra cũng thấp hơn tội phạm… ở Việt Nam hiện nay, vi phạm hành chính được quy định trong Luật xử lí vi phạm hành chính và các Nghị định về xử lí vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể.

Vi phạm kỉ luật nhà nước là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được xác lập trong nội bộ cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lí nhà nước. Những quan hệ xã hội này được pháp luật điều chỉnh nhằm đảm bảo trật tự trong hoạt động của cơ quan, tổ chức. Chủ thể vi phạm kỉ luật nhà nước là cá nhân, tổ chức có quan hệ ràng buộc với một cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lí nhà nước.

Vi phạm dân sự là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm phạm quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân gắn với tài sản, quan hệ nhân thân phi tài sản. Đây là vi phạm pháp luật trong trường hợp chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể.

Cần lưu ý là, sự phân loại trên đây chỉ có ý nghĩa tương đổi. Thực tế cho thấy, vi phạm pháp luật hết sức đa dạng, phức tạp, ranh giới giữa các loại vi phạm nhiều khi khá mong manh.

Luật sư: Nguyễn Thị Bích Phượng – Trưởng phòng Doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giáo trình Lý Luận chung về nhà nước và pháp luật – Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).