Khái niệm về kiểu nhân cách? Các mức độ suy thoái nhân cách?
Nhân cách được hiểu là giá trị xã hội của cá nhân do cá nhân lĩnh hội các giá trị xã hội tạo nên. Tuy nhiên không phải mọi nhân cách đều là những nhân cách phù hợp hoàn toàn với hình mẫu nhân cách mà xã hội mong muốn.
Mục Lục
1. Khái niệm về nhân cách
Nhân cách được hiểu là giá trị xã hội của cá nhân do cá nhân lĩnh hội các giá trị xã hội tạo nên. Tuy nhiên không phải mọi nhân cách đều là những nhân cách phù hợp hoàn toàn với hình mẫu nhân cách mà xã hội mong muốn. Hiện tượng nhân cách có hành vi phi xã hội không phù hợp với các chuẩn mực xã hội trong mối quan hệ với người khác hoặc với xã hội được gọi là sự suy thoái nhân cách. Sự biến thái nhân cách và phá vỡ cấu trúc tâm lý của nhân cách thường có lịch sử lâu dài bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Có quan điểm cho rằng sự biến thái nhân cách có nguồn gốc từ thời kì thơ ấu. Ngay trong những thời kì đầu của sự hình thành nhân cách, cá nhân đã chịu ảnh hưởng của những nhân tố không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách sau này. Đặc biệt trong một số thời kì nhạy cảm trong quá trình phát triển nhân cách.
Trong sự hình thành nhân cách một cách thuận lợi, môi trường xã hội xung quanh được tiếp nhận một cách phù hợp. Cá nhân có thể lĩnh hội các chuẩn mực xã hội và tuân thủ chúng với tư cách là một chủ thể tích cực trong các quan hệ xã hội.
Ngược lại, với những nhân cách mà các cấu tạo tâm lý mới mang tính tiêu cực dần được hình thành và được củng cố ngày một vững chắc hơn. Chúng dần làm suy thoái nhân cách, cản trở sự điều chỉnh hành vi của cá nhân một cách lành mạnh. Các cấu tạo tâm lý này ngày một phát triển một cách độc lập, hình thành xu hướng vận động riêng của chúng. Hình thành các cấu trúc nhân cách bất bình thường và những hình thức sai lệch của các mặt khác của nhân cách. Càng ngày, sự sai lệch càng rõ rệt. Các thuộc tính bất bình thường ngày càng bắt rễ vào hệ thống nhân cách và tiếp tục phát triển ngay cả khi các điều kiện tạo ra chúng không còn tiếp tục tác động nữa.
2. Khái niệm kiểu nhân cách
Kiểu nhân cách là một mẫu người bao gồm những đặc điểm điển hình về mặt xã hội chung cho một lớp hay một loại người. Việc phân kiểu nhân cách mang tính mô tả. Nó cho phép hình dung một cách chung nhất về một nhóm nhân cách trong xã hội giữa nhiều kiểu nhân cách khác nhau.
- Đây là một mô hình bao gồm các đặc điểm xã hội của con người do các nhà nghiên cứu phác họa lên để nghiên cứu. Trong thực tế, con người không hoàn toàn trùng khớp lên các mô hình này mà mô hình này có tính đại diện cho một số người trong cộng đồng.
- Các đặc điểm (hay tiêu chuẩn) được lấy làm căn cứ phân kiểu người thường là các đặc điểm xã hội như: thái độ đối với công việc, với những giá trị trong xã hội. Các kiểu nhân cách này, trong một xã hội thường không đối lập mà có nét tương đồng khác nhau ở thái độ ưu thế nổi bật đối với một giá trị nào đó: ham địa vị, ham tiền tài.
Ngoài ra vẫn còn những nét theo đuổi những giá trị chung của xã hội song không như nhau.
Điều lưu ý phải phân biệt hai loại kiểu nhân cách: kiểu nhân cách cơ bản và kiểu nhân cách lý tưởng:
+ Kiểu nhân cách cơ bản: là kiểu nhân cách có tính chất đại diện cho cùng tầng xét về mặt thống kê. Nó thường xuất hiện, vốn có ở phần lớn các thành viên trong cộng đồng.
+ Kiểu nhân cách lý tưởng là mẫu người cần xây đựng cho một giai đoạn lịch sử nhất định.
Giữa hai loại này bao giờ cũng có khoảng cách, thậm chí có khi đối lập nhau.
Nhưng cũng có thể kiểu nhân cách cơ bản đang tiến tới kiểu nhân cách lý tưởng.
3. Sự khác nhau giữa hai khái niệm “nhân cách” và “kiểu nhân cách”.
Khái niệm “nhân cách” ngoài những nét đặc điểm, đặc tính điển hình về mặt xã hội (có ý nghĩa xã hội) còn bao hàm cả những nét, đặc điểm, đặc tính cá biệt nữa. Do đó nói tới nhân cách là nói tới cái chung và cả cái riêng cá biệt của một con người cụ thể. Nói khác đi tâm lý không phải của bất kì cá nhân nào cũng đều là kiểu tâm lý là kiểu nhân cách xét về mặt giai cấp – xã hội.
Ta hiểu rằng nhân cách tất nhiên mang bản chất xã hội lịch sử nhưng Tâm lý học nhân cách coi nhân cách có tính chất chung hơn, trừu tượng hơn về mặt cấu trúc nhưng không bỏ qua những nét đặc điểm cá biệt.
Còn nói đến kiểu nhân cách là nói các điển hình phi cá tính, phi cá nhân, xem các điển hình không phải là cái đơn nhất mà là một cái gì chung cho một giai cấp, một tầng lớp, một xã hội. Đó là hình ảnh thực, “tập trung hóa” của các cộng đồng người.
4. Phân biệt kiểu nhân cách xã hội và nhân vật điển hình của nghệ thuật
Nhân vật điển hình của nghệ thuật là nhân vật được điển hình hóa, có những đặc điểm điển hình được mô tả dưới hình thức cảm tính trực quan. Khái quát từ nhiều người có thực trong thực tế nhưng nó còn là một cá tính nữa với nghĩa là một cái đơn nhất không có người thứ hai như vậy.
Như vậy kiểu nhân cách không có nét chung với nhân vật điển hình mà nó có những nét tiêu biểu cho một kiểu nhân cách xã hội nhưng hai khái niệm này khác nhau.
Vì Tâm lý học xã hội làm việc với các kiểu có tính chất đại diện ít nhất có tính chất phổ biến, trung bình xét về mặt thống kê toán học theo quy luật số lớn.
Tóm lại, điển hình nghệ thuật bao giờ cũng hiện lên với vẻ đơn nhất của một nhân vật, có xương, nhưng không có tính chất đại diện xét về số lớn mà nó có tính chất cá biệt nhiều hơn.
Song Tâm lý học xã hội phải khai thác nhiều ở chỗ nhân vật điển hình trong nghệ thuật vì chính nó phản ánh phần nào các kiểu nhân cách của một giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là nguồn tài liệu phong phú của những công trình nghiên cứu vấn đề này.
5. Các mức độ suy thoái nhân cách
Có nhiều mức độ suy thoái nhân cách khác nhau với các biểu hiện ở các thuộc tính của nhân cách như xu hướng nhân cách, tính cách. Căn cứ vào tính chất không phù hợp với các chuẩn mực xã hội có thể có một số mức độ như sau:
– Mức độ thấp nhất là ở nhân cách hình thành một số các nét tính cách không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, các giá trị xã hội như: tính tham lam, tính lừa dối, tính độc ác. Các loại tính cách đó đi ngược lại mong muốn của xã hội làm giảm giá trị của nhân cách. Tuy vậy, mức độ này thường không được nhắc đến như là sự suy thoái nhân cách mà chỉ được hiểu đơn giản là các nét tính cách tiêu cực. Cũng chính vì lẽ đó, dạng suy thoái nhân cách này không được chú ý nhiều trong đời sống, thậm chí có những quan niệm cho rằng những nét tính cách như vậy là những điều vốn có ở cá nhân và có thể chấp nhận ở một mức độ nhất định. Sự hình thành và bộc lộ những nét tính cách đó không chỉ đơn giản có từ thơ ấu mà nó còn có thể xuất hiện trong quá trình sống, khi một nhân cách đã tương đối ổn định. Trong sự thay đổi có tính bước ngoặt của điều kiện sống, hoàn cảnh sống các nét tính cách này có thể xuất hiện và bộc lộ rõ ràng.
– Mức độ thứ hai của sự suy thoái nhân cách là các nhân cách có các hành vi lệch chuẩn mang tính hệ thống và thường xuyên: lừa đảo, hành vi tội phạm, tệ nạn xã hội… Các nhân cách này có các hành vi đi ngược lại các chuẩn mực xã hội. Mặc dù cá nhân vẫn nhận thức được tính phi đạo đức của các hành vi của bản thân nhưng lại coi các hành vi đó là hợp lý.
– Mức độ thứ ba: rối nhiễu nhân cách. Đây là hiện tượng kết hợp một số nét nhân cách lệch lạc rõ rệt với chuẩn mực văn hóa ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống và hoạt động của nhân cách. Có thể đề cập đến nhiều loại rối nhiễu nhân cách như rối nhiễu chống đối xã hội – Cá nhân đặt bản thân trong sự đối lập với xã hội và có các hành vi chống đối xã hội một cách có ý thức. Mức độ suy thoái này thực chất đã làm mất nhân cách, các giá trị xã hội được nhập tâm hóa chuyển thành các phản giá trị. Sự tồn tại của cá nhân được khẳng định bằng cách đi ngược lại các yêu cầu của xã hội, rối nhiễu dạng hoang tưởng, rối nhiễu ái kỷ, rối nhiễu xa lánh xã hội, rối nhiễu đóng kịch… Các rối nhiễu này có thể được xác định dựa trên các tiêu chí đánh giá của bộ tiêu chí ICD của Tổ chức Y tế Thế giới hoặc bộ tiêu chí DSM của Hiệp hội Tâm thần Mỹ.
6. Các nguyên nhân suy thoái nhân cách
Có nhiều nguyên nhân làm nhân cách suy thoái. Song chủ yếu là các nguyên nhân về mặt xã hội. Trong đó có 3 nguyên nhân chủ yếu sau:
Đó là khi cá nhân tham gia vào một nhóm xã hội, trong đó các giá trị mà cá nhân đã chấp nhận và tuân thủ trở nên ít có giá trị. Hệ thống các giá trị, các chuẩn mực không được tôn trọng. Thậm chí các giá trị được thừa nhận chung trong xã hội không còn ý nghĩa. Môi trường sống trực tiếp tạo điều kiện cho các nét tính cách tiêu cực hình thành hoặc bộc lộ rõ hơn. Đặc biệt, khi có điều kiện để củng cố, nó ngày càng trở nên chi phối hành động của cá nhân.
Cá nhân có thể rơi vào mâu thuẫn giữa những nhu cầu, mong muốn cá nhân với các vai trò của xã hội mà cá nhân phải đảm nhiệm hay với sự hạn chế của các điều kiện có thể giúp cá nhân thỏa mãn các nhu cầu đó. Do không thực hiện được các vai trò của mình, hoặc không thỏa mãn được nhu cầu, cá nhân có thái độ chống đối và có các hành vi lệch chuẩn. Đối với các cá nhân này, các giá trị đã lĩnh hội chưa đủ mạnh để ngăn chặn những hành vi lệch chuẩn. Bên cạnh đó các tác động từ bên ngoài có các tác động theo xu hướng xô đẩy cá nhân thực hiện các hành vi lệch lạc.
Nguyên nhân thứ ba của sự suy thoái nhân cách là do cá nhân bị hủy hoại các chức năng tâm lý. Nhân cách bị suy thoái do nguyên nhân bệnh lý. Cá nhân bị bệnh tâm thần và không còn ý thức nên cũng không còn nhân cách. Trường hợp này phải có sự can thiệp của các chuyên gia y tế.
7. Ví dụ về nghiên cứu kiểu nhân cách xã hội
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, Olsanxki đưa ra 8 kiểu nhân cách trên cơ sở xác định thái độ ưu thế của mỗi kiểu đối với một giá trị nào đó trong xã hội Nga hồi bấy giờ. Kết quả nghiên cứu như sau:
- Vlađimir: tiến nhanh từ một công nhân bình thường thành một cán bộ phụ trách cỡ lớn. Chưa đầy 40 tuổi mà Vlađimir đã chỉ huy hàng mấy trăm người đang sản xuất một loại sản phẩm quan trọng. Cấp lãnh đạo thừa nhận năng lực của anh ta, có cơ sở để chờ đón anh ta sẽ tiếp tục lên cấp.
Đặc trưng của người này là địa vị, chức vụ.
- Mátvây: công việc anh làm không mang lại tiếng tăm và cơ hội thăng chức nhưng tiền lương khá. Mátvây không từ chối việc gì, không tiếc thời gian làm việc nên có nguồn thu nhập chắc chắn. Anh đã mua được ôtô con và đang giành tiền mua biệt thự ở ngoại ô.
Đặc trưng của người này là giá trị tiền, của cải.
- Vaxily: không chú ý tính toán đến lương bổng và những tiện nghi sinh hoạt, được làm việc ở những nơi nào khó khăn nhất có lợi ích nhất và cần thiết nhất là thấy thích nhất, đẹp nhất, tự hào nhất. Vaxily và những đồng chí của mình đã cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đặc trưng của người này là ham việc, tinh thần công tác cao.
- Nicolai: công việc của anh ta chẳng có gì là anh hùng và cũng chẳng hứa hẹn tăng thêm thu nhập công việc nhàn hạ, không có gì là đột xuất, vất vả song điều độ và bình lặng có một căn hộ riêng xinh xắn, trang trí bày biện đẹp mắt.
Đặc trưng của người này là an phận, bình lặng.
- Paven: sống quan tâm nhiều đến số phận của người khác, giúp đỡ nhiều khi người họ gặp khó khăn có lương tâm, tốt bụng ân cần, hồ hởi. Khi đấu tranh với những khuyết điểm của người khác có lúc vấp váp với một vài cán bộ lãnh đạo khiến cho anh ta chậm được đề bạt, tăng lương.
Đặc trưng của người này là đấu tranh cho chân lý, lẽ phải.
- Anđrây: còn trẻ nhưng đã nổi tiếng, ai cũng biết đến tên tuổi của anh ta. Anh ta thường xuyên xuất hiện trên báo chí, vô tuyến truyền hình. Anh ta không ham tiền, thích biểu hiện (khoe) tài năng của mình trước mọi người.
Đặc trưng của người này là ham tiếng tăm, danh vọng.
- Kirin: có công việc lý thú nên dồn hết sức mình vào đó, không có thời gian cho cuộc sống cá nhân và tiêu khiển; thích nghiên cứu một cách tự do, suy nghĩ độc đáo và táo bạo; ít người biết đến nhưng được thừa nhận là một chuyên gia cỡ lớn.
Đặc trưng của người này là thích sáng tạo, thích ứng với khoa học.
- Côngxtăngtin: không gắn bó với một nghề nghiệp nhất định nào, làm ăn thu nhập thất thường, có khi không còn đồng tiền nào. Côngxtăngtin tự đánh giá mình cao, có xu hướng thích đi lang thang, phiêu bạt nay đây mai đó có nhiều thời gian rảnh rỗi để tiêu khiển; thích đàn đúm “vui vẻ, trẻ trung”. Khi người ta hỏi bao giờ thì ổn định cuộc sống, anh ta trả lời rằng: “về già cũng chưa muộn”.
Đặc trưng của người này là ham chơi, không có chí hướng
Khi nghiên cứu hơn 200 người gồm có công nhân, sinh viên, nghiên cứu sinh nhân viên hàng không… thì được kết quả như sau:
- Kiểu Paven là kiểu được đánh giá cao nhất, sau đó đến kiểu Vaxili, rồi đến Kirin – đến Vlađimir, bị lên án nhiều nhất là kiểu Côngxtăngtin, rồi đến Matvây, Nicôlai và Anđrây.
Thái độ đối với các kiểu nhân cách nêu trên ở Nam và Nữ có sự khác biệt.
- Nữ thích kiểu Vaxili nhưng cũng kém cương quyết hơn trong việc phủ định và bác bỏ kiểu Mátvây.
- Đặc biệt số nữ được nghiên cứu tỏ ra lo lắng thương hại số phận Paven và cần lưu ý một số phụ nữ tỏ ra không hiểu, không thông cảm với kiểu Kirin: không thể tưởng tượng được rằng có người quên gia đình, quên cuộc sống cá nhân: những mặt khác thì Vaxili vẫn được đánh giá cao nhất.
Kết luận: Nhìn chung đối với nữ, vấn đề gia đình và xây dựng quan hệ gia đình là vấn đề hết sức thiết yếu và điều đó không phải chỉ do nguyên nhân sinh vật mà chủ yếu do nguyên nhân xã hội.
Lòng yêu đời về cơ bản giữa nam và nữ không khác nhau nhưng nghiên cứu cho thấy tính năng động (kể cả việc mình tin rằng sẽ đạt được mục đích này), nữ thấp hơn nam tới gần 2 lần (vấn đề có tính chất lịch sử).
Các kiểu nhân cách này là ở Liên Xô trong những năm 1960 đặt ra cho ta suy nghĩ: Cần và nên nghiên cứu một số kiểu người hiện nay trong xã hội ta và nên tham khảo tài liệu của Nga nhưng phải nghiên cứu trên thực tế Việt Nam