Khái niệm về cổng thông tin điện tử (portal) – VOER

Song song với công nghệ website truyền thống (hiện đã có nhiều hạn chế), theo những thống kê chưa đầy đủ, công nghệ portal và các phát triển ứng dụng theo hướng kiến trúc portal hiện đang ngày càng phổ biến ở trên thế giới và Việt Nam, trở thành trào lưu công nghệ và kinh doanh phổ biến trên Internet. Xu hướng chung là đa số các nhà quản lý cao cấp của các tổ chức, doanh nghiệp, cũng như các công ty phát triển phần mềm sẽ cùng chia sẻ các khái niệm và lợi thế của portal để cống hiến vì lợi ích của người dân, các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.

Đối với các sản phẩm portal trên thị trường Việt Nam hiện nay có 3 nhóm chính:

-Nhóm phần mềm do các công ty trong nước tự phát triển

-Nhóm phần mềm dựa trên nền mã nguồn mở

-Nhóm phần mềm do các hãng có uy tín phát triển

DotNetNuke

DotNetNuke là portal nguồn mở viết trên nền .Net, một môi trường lập trình và tổ chức các hẹ thống thông tin rất nổi tiến vả rất thông dụng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Hiện tai cộng đồng người sử dụng sản phẩm này thuộc loại đông nhất trên thế giới.

Tương tự như vậy, các sản phẩm uPortal, Liferay cũng là nhưng Portal nguồn mở nhưng khác với DotNetNuke ở chỗ chúng được viết trên JAVA, một môi trường lập trình và tổ chức các hệt hống thông tin khá thông dụng trên thế giới tiếc rằng chưa phổ cập ở Việt Nam. Hiện tai cộng đồn người sử dụng dùng những sản phẩm đầu tiên là khá đông đảo, nhưng hiện nay thì cộng đồng DotNetNuke đông hơn.

Những sản phẩm này được chọn vì những lý do sau:

-Cơ quan hiện mới dùng CNTT ở mức độ khiêm tốn xét trên các khía cạnh: năng lực tổ chức nội dung “số” (quy trình, chính sách pháp lý, nguồn thông tin,…) và năng lực khai thác, sử dụng thành thạo các sản phẩm CNTT (của cán bộ quản trị hệ thống, của người khai thác hệ thống). Việc đầu tư lớn ngay từ đầu thường dẫn đến lãng phí bởi vì hệ thống sẽ thiếu nội dung khi vận hành hoặc hệ thống có ít người khai thác do chình độ CNTT hạn chế hoặc chưa hình thành thói quen.

-Quy trình xử lý công việc hàng ngày trên cơ sở thông tin “số” mới đang hình thành và mới ở mức độ khuyến khích sử dụng, chưa phải bắt buộc.

-Các hệ thống thông tin chuyên ngành để tạo nguồn cho thông tin chưa nhiều, và lộ trình xây dựng những hệ thống thông tin chuyện ngành này là chưa rõ ràng, nhất là chưa thể xây dựng trong một thời gian ngắn.

-Nhu cầu khai thác thông tin, chức năng khai thác thông tin và số lượng người khai thác thông tin chưa phải lớn ngay từ đầu, nó cần được hình thành, củng cố mở rộng dần theo thời gian.

Ưu điểm là

-Không đòi hỏi phải có đầu tư ngay từ đầu. Có thể tránh được lãng phí nếu xây dựng được kế hoạch phát triển nội dụng thích hợp

-Hệ thống có thể vừa khai thác sử dụng, vừa bổ sung thêm chức năng, mở rộng thêm nguồn thông tin phủ hợp với lộ trình đầu tư và lộ trình nâng cao trình độ sử dụng CNTT của cơ quan/tổ chức.

-Sản phầm là miến phí và có mã nguồn mở để có thể chỉnh sửa. Tuy nhiên, ưu thế về có mã nguồn cũng không thực sự là ưu thế bởi vì rất hiếm chuyên gia Việt Nam có khả năng để chỉnh sửa những mã nguồn này.

Nhược điểm của những sản phẩm này là:

-Tính năng của những sản phẩm này là hạn chế, mới chỉ đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của tổ chức và phổ biến thông tin.

-Cần phải lập trình phát triển các chức năng mà sản phẩm mã nguồn mở chưa cung cấp, nhất là các module thực hiện các chức năng tích hợp với các hệ thống thông tin đang hoạt động.

-Mức độ ổn định, tin cậy, tốc độ đáp ứng thông tin không cao bằng những sản phẩm bản quyền.