Khái niệm thanh tra hành chính? Những đặc điểm cơ bản của thanh tra hành chính?

Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao

Căn cứ pháp lý:

– Luật Thanh tra năm 2010

1. Khái niệm thanh tra hành chính

Tại khoản 2, Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010:

“Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao “.

Theo khái niệm này, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp. 

Xuất phát từ khái niệm trên, thanh tra hành chính có đặc điểm là hoạt động diễn ra trong nội bộ bộ máy nhà nước; đối tượng thanh tra hành chính cũng là đối tượng quản lý; nội dung thanh tra hành chính phụ thuộc vào nội dung quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý đến đâu thì hoạt động thanh tra hành chính đến đó. Thanh tra hành chính mang tính giám sát nội bộ của bộ máy nhà nước hay bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước, là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác. 

Thanh tra hành chính bao gồm: Thanh tra theo chương trình, kế hoạch được duyệt, thanh tra đột xuất và thanh tra trách nhiệm thủ trưởng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

2. Mục đích, ý nghĩa hoạt động thanh tra hành chính

Mục đích, ý nghĩa của hoạt động thanh tra là nội dung quan trọng được đề cập trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các bài giáo huấn của Bác Hồ khi nói về thanh tra. Chỉ thị số 38/CT-TƯ ngày 20/02/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) nêu rõ: “Mục đích của thanh tra là đánh giá chính xác những mặt làm đúng, làm sai trong việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật, kế hoạch nhà nước…Trước mắt cũng như lâu dài, công tác thanh tra có tác dụng quan trọng, trực tiếp giữ gìn pháp luật nhà nước, tăng cường trách nhiệm quản lý kinh tế, quản lý xã hội của bộ máy nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. 

Điều 2, Luật Thanh tra năm 2010 nêu:

“Mục đích thanh tra nhằm phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. 

Từ các nghị quyết, chỉ thị đến Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010 đều khẳng định mục đích của công tác thanh tra nói chung và thanh tra hành chính nói riêng trước hết là để phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho công tác quản lý điều hành của Nhà nước ngày càng có hiệu quả, hiệu lực, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Đây là mục tiêu đặt lên hàng đầu của công tác thanh tra. Chính vì vậy, công tác thanh tra phải hướng vào việc đánh giá các cơ chế, chính sách và việc thực hiện các cơ chế, chính sách đó trong thực tiễn cuộc sống. 

Điều này càng trở nên cực kỳ quan trọng khi chúng ta đang trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sự đánh giá cơ chế, chính sách qua các kiến nghị của thanh tra là vô cùng cần thiết. Chúng ta đang sống trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường với sức tăng trưởng đáng kể do mọi tiềm năng được phát huy. Thêm vào đó là sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế – chính trị của thế giới. Trong bối cảnh đó, các tiêu chí đánh giá luôn có sự biến động. Hệ thống văn bản pháp luật cũng được thay đổi thường xuyên nhưng nhiều khi vẫn không phản ánh hết được thực tiễn cuộc sống, các quan hệ xã hội mới phát sinh. Chính vì vậy, ngành Thanh tra và cụ thể là những người đi thanh tra phải có quan điểm đúng và nhìn nhận các vấn đề với nhãn quan biện chứng, trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng để đánh giá chính xác các vấn đề mà mình thanh tra. Từ đó, đưa ra các kiến nghị xác đáng để xử lý những vấn đề đó, đồng thời đưa ra các giải pháp hoặc dự kiến cho tương lai. Thanh tra lấy pháp luật làm chuẩn mực nhưng hơn thế nữa phải thấy được mục đích tối thượng trong quản lý nhà nước là hiệu quả quản lý, tính phục vụ nhân dân để xem xét đánh giá đúng, sai, công và tội… Một việc làm nào đó mà chưa đúng với quy định của pháp luật nhưng lại có lợi cho nước, cho dân thì chính quy định đó cần phải được thanh tra kiến nghị sửa đổi. Như vậy, thanh tra ngoài việc xem xét việc làm của đối tượng thanh tra còn phải xem xét chính chủ trương, chính sách có đúng không có phù hợp với thực tiễn hay không. 

Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật cũng là mục đích của hoạt động thanh tra hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân, góp phần ổn định tình hình trật tự xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. 

Ngoài ra, thanh tra hành chính còn để giúp cơ quan, tổ chức thực hiện đúng quy định của pháp luật, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các đối tượng thanh tra. Phát huy nhân tố tích cực cũng là mục đích quan trọng định hướng cho kết quả hoạt động thanh tra. Cuối cùng, từ những mục tiêu cần đạt được nêu trên, hoạt động thanh tra hướng đến kết quả chung là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước của các ngành, các cấp. Chính vì vậy, qua từng thời kỳ phát triển đất nước việc nâng cao hiệu quả công tác thanh tra nói chung và thanh tra hành chính nói riêng là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.

3. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra hành chính

– Nguyên tắc tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời 

Nguyên tắc tuân theo pháp luật là nguyên tắc chung được thể hiện ở trong tất cả các giai đoạn của hoạt động thanh tra. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính pháp chế xuyên suốt trong hoạt động thanh tra từ khi xây dựng kế hoạch, khảo sát, ra quyết định thanh tra, tiến hành thanh tra và kết thúc thanh tra. Tất cả các giai đoạn này, các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thanh tra và các quy định pháp luật khác có liên quan, từ việc thực hiện các quy định về nội dung lẫn các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành; về thời hạn thanh tra đến việc tuân thủ việc sử dụng đúng quyền trong hoạt động thanh tra. 

Về nguyên tắc đảm bảo chính xác: Nguyên tắc này được thực hiện trong toàn bộ quá trình thanh tra. Trong giai đoạn tiến hành thanh tra, nguyên tắc chính xác được thể hiện rõ nét nhất là trong việc áp dụng các văn bản pháp luật vào việc nhận định, đánh giá thông tin, tài liệu thu thập được. Trong giai đoạn kết thúc thanh tra nguyên tắc này thể hiện ở việc đánh giá tính chính xác các tài liệu, chứng cứ; kết quả giám định, thẩm định, kiểm tra hiện trạng; các biện pháp xử lý, tính chính xác khi áp dụng các văn bản pháp luật để đối chiếu so sánh. Bảo đảm tính chính xác trong việc đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra để xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm; các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý khi xây dựng Báo cáo, Kết luận thanh tra. 

Về nguyên tắc khách quan, trung thực: Đây cũng là vấn đề có tính nguyên tắc cao, nó đảm bảo phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và bóp méo sự thật. Nếu như tính chính xác nhấn mạnh đến khả năng, năng lực chuyên môn của hoạt động thanh tra thì tính khách quan, trung thực đòi hỏi người làm công tác thanh tra phải có quan điểm và thái độ đúng đắn, đánh giá tình hình hết sức công tâm, rõ ràng về những vấn đề được thanh tra. Nguyên tắc khách quan trung thực còn được thể hiện ở việc báo cáo đầy đủ những tài liệu, chứng cứ, những thông tin, những vấn đề phát hiện trong quá trình tiến hành thanh tra. 

Về nguyên tắc công khai: Khi tiến hành thanh tra, Đoàn thanh tra phải thông báo đầy đủ nội dung thanh tra cho đối tượng thanh tra; công khai với đối tượng thanh tra, công khai cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung thanh tra trong việc thu thập hồ sơ, tài liệu; công khai khi tiếp xúc với đối tượng thanh tra và những người có liên quan ở nơi thanh tra. Nguyên tắc công khai còn được thể hiện ở việc Đoàn thanh tra thông báo kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra với đối tượng thanh tra; công khai về những đánh giá, kết luận của đoàn sau khi kết thúc thanh tra để đối tượng thanh tra có cơ hội giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu, chứng cứ và công khai Kết luận thanh tra theo quy định của Luật thanh tra. 

Về nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ được thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên Đoàn thanh tra với nhau và giữa Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra, giữa Đoàn thanh tra với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Đó là việc các thành viên Đoàn thanh tra thảo luận, đưa ra ý kiến của mình về từng vấn đề cụ thể khi xây dựng kế hoạch thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra. Đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền đưa ra quan điểm của mình về những đánh giá, kết luận của Đoàn thanh tra, kết luận của người ra quyết định thanh tra. Và những ý kiến của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải được thảo luận, xem xét một cách khách quan, dân chủ. 

– Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra 

Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra thể hiện chủ yếu ở giai đoạn xây dựng kế hoạch thanh tra, thực hiện khảo sát. Nội dung của nguyên tắc này chỉ liên quan đến người ra quyết định thanh tra bởi việc xác định phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian, thời hạn thanh tra thuộc thẩm quyền của người ra quyết định thanh tra và là cơ sở để tiến hành hoạt động thanh tra. Nhằm tránh sự chồng chéo, trùng lặp, gây lãng phí về các nguồn lực và hiệu quả công tác thanh tra.

Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Đây là nguyên tắc mới được bổ sung trong Luật Thanh tra 2010, thể hiện quan điểm mới về hoạt động thanh tra, bảo đảm không được gây phiền hà, sách nhiễu, cản trở đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. 

Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra thể hiện chủ yếu ở giai đoạn làm việc với đối tượng thanh tra tại cơ quan, trụ sở của đối tượng thanh tra. Thực hiện tốt nguyên tắc này không chỉ giúp cho hoạt động thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc, công khai, minh bạch mà còn giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra không bị ảnh hưởng mà hoạt động bình thường. 

Tóm lại, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành động mà các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức thanh tra phải tuân theo trong quá trình hoạt động thanh tra. Vai trò của từng nguyên tắc trong các giai đoạn thực hiện hoạt động thanh tra là khác nhau. Có nguyên tắc xuyên suốt quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, có nguyên tắc chỉ chi phối một giai đoạn nào đó của hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, dù ở giai đoạn nào của quá trình hoạt động thanh tra việc thực hiện đúng, phù hợp các nguyên tắc nhằm đạt mục đích kết quả chung là nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra.

4. Những đặc điểm cơ bản của thanh tra hành chính

4.1. Thanh tra hành chính gắn liền với quản lý nhà nước 

Thanh tra là một phạm trù lịch sử, gắn liền với quá trình lao động xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra. 

Quản lý nhà nước và thanh tra hành chính có cái chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra hành chính thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra hành chính. Xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra hành chính chỉ là những công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước. Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra hành chính bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh các cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý nhà nước. Trong chu trình đó, thanh tra hành chính phản ánh và bảo vệ mục đích của quản lý. Một thể chế hành chính và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra hành chính. Kết quả thanh tra hành chính không chỉ có vai trò đối với đối tượng quản lý nhà nước mà còn có vai trò đối với chủ thể quản lý nhà nước. Thông qua hoạt động thanh tra hành chính giúp cho các chủ thể quản lý nhà nước hoàn thiện các phương tiện quản lý nhà nước như pháp luật, cơ chế, chính sách,… Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra hành chính giúp cho các chủ thể quản lý ra các quyết định áp dụng chính xác, đúng đắn, khách quan và phù hợp hơn.

4.2. Thanh tra hành chính mang tính quyền lực nhà nước 

Một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, đồng thời, hệ thống pháp luật cũng phải hoàn chỉnh để đảm bảo pháp luật được thực hiện. 

Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra hành chính phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Không thể không có quyền lực mà không gắn với một tổ chức. Nói về quyền lực nhà nước, quá trình thanh tra hành chính cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức Thanh tra.

Vì vậy, thanh tra hành chính phải được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý. Khi nhấn mạnh tính quyền lực của các tổ chức Thanh tra, Lênin nói: “Thanh tra thiếu quyền lực là thanh tra suông”. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với tính quyền uy – phục tùng của quản lý nhà nước. Các cơ quan thanh tra nhà nước đều có quyền ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng bị thanh tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị thanh tra phát hiện. Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết đề nghị của Thanh tra, yêu cầu truy cứu trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp luật. Trong một số trường hợp, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. 

Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra hành chính phải được cụ thể hoá trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống thanh tra; phương thức tiến hành, xử lý kết quả thanh tra hành chính; quan hệ giữa cơ quan thanh tra hành chính với đối tượng bị thanh tra; sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra và giữa tổ chức thanh tra với các cơ quan chức năng trong việc phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật chưa hoàn thiện để tạo cơ sở xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. 

4.3. Thanh tra hành chính mang tính độc lập tương đối 

Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra hành chính. Đặc điểm này phân biệt thanh tra hành chính với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý nhà nước. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà nước khác, tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá một cách khách quan, đúng pháp luật. Tính độc lập trong quá trình thanh tra hành chính được thể hiện trên các điểm sau: Phải tuân theo pháp luật, tự mình tổ chức các cuộc thanh tra hành chính trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định, ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật về kết quả của hoạt động thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình. 

Tính độc lập của hoạt động thanh tra hành chính chỉ là tương đối bởi vì, trong hoạt động thanh tra hành chính, các cơ quan Thanh tra phải căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện hành, đồng thời phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, đặt sự vật, hiện tượng, việc đang làm trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học, lịch sử cụ thể. Nghĩa là thanh tra xem xét mọi việc không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà cả tính hợp lý. Trong hoạt động thanh tra hành chính, về nguyên tắc, người có trách nhiệm, người quyết định cuối cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra vẫn là thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Nếu thủ trưởng không sử dụng kết quả thanh tra không đồng ý với kết luận thanh tra thì cơ quan thanh tra có quyền bảo lưu ý kiến.

Tóm lại, hoạt động thanh tra hành chính là một bộ phận không thể tách rời hoạt động quản lý. Hoạt động thanh tra hành chính mang tính quyền lực nhà nước và có tính độc lập tương đối, nhưng luôn được coi như “cái bóng” của quản lý, là một công cụ phục vụ công tác quản lý. Chính vì vậy, hoạt động thanh tra hành chính luôn coi trọng tính hiệu quả, hiệu lực; đề cao tính nhanh nhạy, kịp thời của yêu cầu quản lý; tôn trọng và thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục luật định, tính bắt buộc thi hành đối với các quyết định xử lý.