KHÁI LUẬN VỀ VĂN HÓA (Trần Ngọc Thêm) – biology – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Studocu

KHÁI LUẬN

VỀ

VĂN HÓA

GS.VS.TSKH.

T

rần Ngọc T

hêm

(Đại học Quốc gia

Tp. Hồ Chí Minh)

In trong sách:

Phác thảo chân dung văn hóa V

iệt Nam.

– HN.,

NXB Chính trị Quốc gia, 2000.

Ngay

từ

thuở

lọt

lòng,

chúng

ta

đã

đắm

mình

trong

chất

men

văn

hóa:

từ

lời

ru

của

mẹ, bài học

của cha, trò chơi của

chị… cho đến tiếng gọi đò

bên sông,

tiếng võng đưa kẽo

kẹt

lúc

trưa

hè,

tiếng

chuông

buông

khi

chiều

xuống…

tấ

t

cả,

tất

cả

những

sự

kiện

đó,

những

ấn

tượng

đó,

những

âm

thanh

đó,

những

hình

ảnh

đó…

đều

thuộc

về

văn

hóa. Cái

tinh

thần

như tư tưởng,

ngôn

ngữ…

văn

hóa; cái

vật

chất

như ăn, ở,

mặc…

cũng

văn

hóa.

Chính

văn

hóa đã

nuôi

chúng

ta lớn,

dạy

chúng

ta

khôn.

Người

ta

nói:

văn

hóa

ẩm

thực,

văn

hóa

trang

phục,

văn hóa

ứng

xử,

văn

hóa

tiêu

dùng,

văn

hóa

kinh

doanh,

văn

hóa

chính

trị,

văn

hóa

Đông

Sơn,

văn

hóa

Hòa

Bình,

văn

hóa

rìu

vai…

Từ

“văn

hóa”

biết

bao

nhiêu

nghĩa,

được

dùng

để

chỉ

những

khái

niệm

nội

hàm

hế

t

sức

khác

nhau.

T

uy

được

dùng

theo

nhiều

nghĩa

khác

nhau,

nhưng

suy

cho

cùng,

khái

niệm

văn

hóa

bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.

Theo

nghĩa

hẹp,

văn

hóa

được

giới

hạn

theo

chiều

sâu

hoặc

theo

chiều

rộng,

theo

không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa

được hiểu là những giá

trị

tinh

hoa

của

(nếp

sống

văn

hóa,

văn

hóa

nghệ

thuật…).

Giới

hạn

theo

chiều

rộng,

văn

hóa được

dùng

để

chỉ

những

giá

trị

trong

từng

lĩnh

vực

(văn

hóa

giao

tiếp,

văn

hóa

kinh doanh…).

Giới

hạn theo

không gian,

văn hóa

được dùng

để chỉ

những

giá trị

đặc thù

của

từng

vùng

(vănhóa

Tây

Nguyên,

văn

hóa Nam

Bộ…).

Giới

hạn

theo

thời

gian,

văn

hóa được

dùng

để

chỉ

những

giá

trị

trong

từng

giai

đoạn

(văn

hóa

Hoà

Bình,

văn

hóa Đông Sơn…)…

Theo nghĩa rộng, văn

hóa thường được xem là

bao gồm tất cả những

gì do con người

sáng tạo ra.

Năm 1940, Hồ Chí Minh đã

viết: “Vì lẽ sinh tồn

cũng như

mục đích của cuộc

sống,

loài

người

mới

sáng

tạo

phát

minh

ra

ngôn

ngữ,

chữ

viết,

đạo

đức,

pháp

luật,

khoa

học,

tôn

giáo,

văn

học,

nghệ

thuật,

những

công

cụ

cho

sinh

hoạt

hằng

ngày

về

ăn,

mặc,

các

phương

thức

sử

dụng.

T

oàn

bộ

những

sáng

tạo

phát

minh

đó

tức

văn

hóa. Văn hóa là sự t

ổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà

loài

người

đã

sản

sinh

ra

nhằm

thích

ứng

những

nhu

cầu

đời

sống

đòi

hỏi

của

sự

sinh

tồn”[1][1].

Federico

Mayor

,

Tổng

giám

đốc

UNESCO,

cho

biết:

“Đối

với

một

số

người,

văn

hóa

chỉ

bao

gồm

những

kiệt

tác

tuyệt

vời

trong

các

lĩnh

vực

duy

sáng

tạo;

đối

với

những

người

khác,

văn

hóa

bao

gồm

tất

cả

những

làm

cho

dân

tộc

này

khác

với

dân

tộc

khác, từ

những

sản

phẩm

tinh

vi

hiện đại

nhất

cho

đến

tín

ngưỡng,

phong tục

tập

quán,

lối

sống

lao

động.

Cách

hiểu

thứ

hai

này

đã

được

cộng

đồng

quốc

tế

chấp

nhận

tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại

V

enise”[2][2].

Chính

với

cách

hiểu

rộng

này

,

văn

hóa

đã

trở

thành

đối

tượng

của

văn

hóa

học

(culturology

,

culture

studies,

science

of

culture)

khoa

học

nghiên

cứu

về

văn

hóa.

T

rong

lĩnh

vực

này

,

khởi

đầu

từ

định

nghĩa

của

E.B.T

ylor

trong

cuốn

Văn

hóa

nguyên

thuỷ

(Primitive culture)

xuất

bản ở

London năm

1871, đến

nay

đã có

rất nhiều

định nghĩa

khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà nhân học người Mỹ là

A. Kroeber và C. Kluckhohn

đã

viết

một

cuốn

sách

chuyên

bàn

về

các

định

nghĩa

văn

hóa

nhan

đề:

Văn

hóa

tổng

luận