I. KHÁI NIỆM ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC – Tài liệu text
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.54 KB, 76 trang )
Tuy nhiên hai khái niệm assessment và evaluation thì không được
sử dụng thống nhất, ngay cả giữa những người nghiên cứu về giáo dục
trong cùng một quốc gia. Nhiều tác giả (Ví dụ Mehrens & Lehmann,
1991) quan niệm hai thuật ngữ này là tương đương nhau, và họ chủ yếu
quan tâm đến sự khác biệt giữa chúng với khái niệm measurement:
assessment (hoặc evaluation) là một quá trình thu thập, xử lý thông tin
đa chiều để từ đó rút ra những nhận xét hay kết luận về người học, môn
học, khoá học, hay về một lĩnh vực nào đó trong hoạt động giáo dục trên
cơ sở các mục tiêu đã đề ra. Với quan niệm như vậy thì test và
measurement chỉ là những bộ phận của assessment (hoặc evaluation).
Trong giáo dục, những kết quả measurement như nhau chưa hẳn đã có
kết quả assessment (hoặc evaluation) giống nhau: chẳng hạn hai học sinh
A và B có điểm thi cuối khoá bằng nhau (cùng measurement), tuy nhiên
nếu xuất phát điểm về năng lực học tập của học sinh B kém hơn nhiều so
với học sinh A thì học sinh B xứng đáng có được kết quả assessment
(hoặc evaluation) cao hơn.
Có những tác giả (ví dụ Rowntree, 1987) cho rằng evaluation cần
được hiểu rộng hơn là assessment: trong khi mục đích của assessment là
nhằm đánh giá thành tích, năng lực, và sự tiến bộ của người học thì
evaluation còn bao hàm luôn cả những yếu tố của hoạt động dạy học có
tác động đến chất lượng học tập.
Một số tác giả (ví dụ Astin, 1991) cho rằng người dạy chủ yếu làm
nhiệm vụ measurement, tức xác định thành tích học tập của người học,
còn các đối tượng khác thực hiện assessment (hoặc evaluation): những
nhà quản lý đào tạo quyết định việc lên lớp hoặc ở lại lớp, khen
thưởng…; người học tự đánh giá sự tiến bộ của bản thân; các cơ sở đào
tạo cao hơn xem xét khả năng tiếp tục học của người học; nhà tuyển
dụng quyết định thâu nhận hay không….
Đối với tiếng Việt, phù hợp thói quen sử dụng lâu nay, thay vì đi
tìm hai thuật ngữ khác nhau cho assessment và evaluation người viết đề
nghị có thể dùng thuật “đánh giá” để chỉ chung cho hai khái niệm này.
Tuy nhiên, để gắn chặt với một mục đích cụ thể, chúng ta nên ghép thêm
các từ mang tính chất diễn giải chẳng hạn đánh giá học tập, đánh giá đạo
đức, đánh giá môn học, đánh giá chương trình…. Một điều đáng lưu ý là
người dạy cần thận trọng khi dùng cụm từ “đánh giá người học/học
sinh/sinh viên” bởi lẽ điều đó được hiểu như là sự đánh giá về cả một
con người theo nghĩa rộng (bao gồm cả các yếu tố về nhân cách), trong
khi đó chúng ta (người dạy) chủ yếu chỉ quan tâm đến những thông tin
về mặt học tập.
51
2. Một mô hình về sự tương quan giữa giảng dạy và đánh giá
Giảng dạy và đánh giá thường được xem là hai mặt không thể tách rời
của hoạt động dạy học và chúng có tác dụng tương hỗ lẫn nhau. Tuy
nhiên tác dụng tương hỗ đó diễn ra như thế nào thì có nhiều lập luận,
quan niệm không như nhau. Trong phần này, người viết xin được giới
thiệu một mô hình về sự tương tác giữa giảng dạy và các hoạt động khác
nhau của đánh giá của tác giả Rowntree (1987), một trong những nhà
nghiên cứu giáo dục lớn của Hoa Kỳ.
G
D
T
E
D
D
T
A
N
G
G
T
A
N
T
E
T
A
N
A
A
E
MÔ HÌNH TƯƠNG TÁC GIỮA GIẢNG DẠY VÀ ĐÁNH GIÁ
Ghi chú:
T (Teaching): giảng dạy
A: đánh giá quá trình (formative assessment)
N: các tác động khác của hoạt động giảng dạy
E (Evaluation): đánh giá tính hiệu quả của hoạt động giảng dạy
D: (Diagnostic appraisal): tìm hiểu yêu cầu, ưu nhược diểm của người
học
G (Grading): cho điểm, xếp loại (hạng)
A
Đánh giá chung cuộc (summative assessment)
G
Điểm/xếp loại (hạng) chung cuộc
Những đặc điểm chính của mô hình:
– Đánh giá học tập cần phải dựa trên nền tảng thông tin mà hoạt
động giảng dạy cung cấp.
52
G
– Chất lượng của giảng dạy được phát triển liên tục trên cơ sở
thường xuyên xử lý thông tin từ đánh giá học tập; từ sự tìm hiểu
yêu cầu, ưu nhược diểm của người học; và từ đánh giá giảng dạy
cùng các yếu tố tác động đến học tập của nó.
– Điểm/xếp loại (hạng) chung cuộc cần phải dựa trên kết quả của
chuỗi những đánh giá quá trình.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP
1. Phân loại hoặc tuyển chọn người học:
Đây có lẽ là mục đích phổ biến nhất của các hoạt động đánh giá
học tập. Với mục đích này, thông qua đánh giá người học được phân loại
về trình độ nhận thức, năng lực tư duy, hoặc kỹ năng. Sự phân loại này
có thể nhằm phục vụ cho những mục đích khác nhau: xét lên lớp, khen
thưởng, xét tuyển đối với bậc học cao hơn, xét tuyển dụng lao động…
2. Duy trì chuẩn chất lượng:
Đánh giá còn nhằm mục đích xem xét một chương trình học hoặc
một nhóm đối tượng người học có đạt được yêu cầu tối thiểu về mặt chất
lượng đã được xác định hay không. Đánh giá theo mục đích này thường
được tiến hành bởi các nhà quản lý giáo dục hoặc các cơ quan quản lý
chất lượng giáo dục.
3. Động viên học tập:
Thực tiễn giáo dục cho thấy một khi hoạt động đánh giá được tổ
chức đều đặn và thích hợp thì chất lượng học tập không ngừng được
nâng cao. Đánh giá được xem như một chất xúc tác giúp cho “phản ứng
học tập” được diễn ra thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Trong tâm lý học, cho
điểm hay xếp loại học tập có thể được xếp vào loại hoạt động khích lệ
(incentive). Hoạt động này đóng vai trò như là nhân tố thúc đẩy bên
ngoài (external motivational factor). Nếu nó được kết hợp cùng với lòng
mong muốn (drive), cả hai sẽ tạo ra động lực (motive) cho các hoạt động
của con người (Bootzin và cộng sự, 1986, tr. 319). Tuy nhiên, nếu quá
đề cao hoặc áp dụng thái quá các biện pháp khích lệ thì có thể dẫn đến
kết quả làm cho người được khuyến khích điều chỉnh mục đích hoạt
động của họ (Stipek, 1998). Không ít người học hiện nay coi điểm số
hay xếp hạng là mục tiêu quan trọng nhất của sự học. Đây chính là tác
dụng ngược của hoạt động đánh giá học tập một khi nó không được thực
hiện một cách đúng đắn.
4. Cung cấp thông tin phản hồi cho người học:
53
Kết quả đánh giá có thể cho phép người học thấy được năng lực
của họ trong quá trình học tập. Muốn vậy, thông tin đánh giá cần đa
dạng (chẳng hạn cho điểm kết hợp với nhận xét) và hoạt động đánh giá
cần diễn ra tương đối thường xuyên. Ở nhiều trường hiện nay giáo viên
phải dạy các lớp đông, từ đó dẫn đến họ không dám đánh giá thường
xuyên vì không có thời gian chấm bài, mà có chấm thì đa số cũng chỉ
cho điểm chứ hiếm khi cho nhận xét về ưu, nhược điểm của người làm
bài.
5. Cung cấp thông tin phản hồi cho người dạy:
Thông qua đánh giá, giáo viên có thể biết được năng lực học tập
hoặc khả năng tiếp thu về một vấn đề cụ thể của người học, biết được
tính hiệu quả của một phương pháp giảng dạy hoặc một chương trình
đào tạo nào đó và từ đó có thể khắc phục những hạn chế.
6. Chuẩn bị cho người học vào đời:
Đây là mục tiêu ít được quan tâm nhất trong thực tiễn giáo dục
mặc dù nó không kém phần quan trọng. Thông qua các phương pháp
đánh giákhác nhau, giáo viên có thể giúp người học bổ sung, phát triển
những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống cũng như nghề nghiệp
về sau. Ngoài các kỹ năng có tính đặc thù của nghề nghiệp, các kỹ năng
xã hội (như kỹ năng giao tiếp, trình bày; kỹ năng làm việc nhóm;…)
cũng rất quan trọng đối với người học về sau bỡi lẽ cho dù với loại công
việc gì, con người cũng phải sống và làm việc trong một môi trường tập
thể nhất định.
III. YÊU CẦU CỦA ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP
Trong một phúc trình của Uỷ ban Quốc tế về Giáo dục cho thế kỷ
21 của UNESCO có xác định bốn trụ cột của một nền giáo dục là: Học
để biết, Học để làm, Học toàn diện, và Học để chung sống (Singh,
1998). Học để biết nói lên yêu cầu về mặt trí tuệ, bao gồm những kiến
thức có thể giúp người học có thể vươn lên trong học tập, trong hoạt
động nghề nghiệp, và học tập suốt đời. Học để làm đòi hỏi sự thành thạo
của các kỹ năng, thao tác cũng như phương pháp tư duy. Học toàn diện
đặt ra yêu cầu phát triển toàn diện về chất, nhằm giúp người học phát
triển nhân cách hoàn chỉnh. Học để chung sống nhấn mạnh mục đích
đào tạo ra những con ngưòi biết cách sống và biết cách làm việc với
những người xung quanh.
Bốn trụ cột nói trên là định hướng cho hoạt động giáo dục ở mọi
cấp, trong đó có hoạt động đánh giá. Như vậy, ngoài các yêu cầu về sự
đa dạng của năng lực nhận thức (nhận biết, hiểu, áp dụng, phân tích,
54