Học sinh cá biệt là gì? Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt?
Học sinh cá biệt là gì? Đặc điểm của học sinh cá biệt? Nguyên nhân hình thành học sinh cá biệt? Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt?
Cá biệt là thuật ngữ dùng để chỉ các thành phần, đối tượng không đi theo quy luật, tuân thủ quy định chung. Học sinh cá biệt xác định cho nhóm học sinh không nổi bật trong học tập, và thường không tuân thủ các nội quy, quy định trong trường học. Điều đó có thể ảnh hưởng đến chất lượng học tập và thành tích chung. Cũng như khó kiểm soát, quản lý học sinh trong môi trường giáo dục. Tùy theo các mức độ và lứa tuổi của học sinh mà gia đình, trường học và xã hội cần quan tâm, giáo dục cũng như uốn nắn học sinh. Giúp kiểm soát và giúp các em điều chỉnh chuẩn mực đạo đức, uốn nắn nhận thức và hành vi.
1. Học sinh cá biệt là gì?
Học sinh cá biệt là thuật ngữ được sử dụng đối với những học sinh không tuân thủ nội quy, quy chế của trường học. Cá biệt thể hiện với thiểu số, và nhà trường cần quan tâm rèn luyện nội quy, quy chế nhiều hơn. Các học sinh này cũng làm ảnh hưởng đến học tập, rèn luyện chung của tập thể. Thông thường, các học sinh cá biệt cũng không có lực học tốt.
Học sinh cá biệt thường được thể hiện qua sự nghịch ngợm, quậy phá, hay đánh nhau, mất trật tự trong giờ học. Các học sinh này thường trốn tiết, bỏ học. Thường thích thể hiện bản thân và làm trái lại các quy định cần thực hiện với người học sinh.
Hầu hết những học sinh này thường không tuân theo các nội quy của lớp, của trường. Trong độ tuổi thích khám phá và có phần hiếu động, đa phần các em thường làm theo ý của bản thân. Trong đó, có các học sinh không bộc lộ điều đó ở nhà, chỉ cá biệt ở trường học và ngoài xã hội.
Do vậy gia đình và nhà trường cần kịp thời phối hợp, đưa ra phương hướng giải quyết, biện pháp khắc phục. Từ đó khuyên nhủ, giáo dục và tăng nhận thức cho các em về trách nhiệm, ý thức cần có đúng độ tuổi. Giúp những học sinh này tránh bị người xấu lôi kéo dẫn đến các tệ nạn xã hội.
Xem thêm: Mục đích đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT
2. Đặc điểm của học sinh cá biệt:
Nhìn chung đa số các học sinh cá biệt sẽ đều có những đặc điểm như sau:
Trong tính cách, hoạt động thực hiện:
– Có tính hiếu động, thích tìm tòi, thích làm việc riêng và trái với quy định chung. Muốn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào, đặc biệt là các môi trường thực hiện quản lý tập thể.
– Nhanh nhẹn, hoạt bát, có phần thông minh cùng nhiều kỹ năng sống. Cùng với sự nghịch ngợm kèm theo. Tuy nhiên do không được kịp thời quản lý, uốn nắn và giáo dục, các em mới bị dụ dỗ, lôi kéo trở thành học sinh cá biệt.
– Ham hoạt động, ham hiểu biết đối với các vấn đề mang tính chất xã hội. Thích khám phá bằng một cách riêng cho nên có sự lệch lạc trong định hướng. Có cảm xúc bất ổn, những điều gì hấp dẫn thú vị thì các em sẽ làm ngay lập tức, tập trung. Thường quan tâm nhiều hơn với các hoạt động kích thích mạnh, các thú vui hay muốn mình đặc biệt hơn người khác. Cho nên nhiều học sinh lựa chọn bạo lực để thể hiện sức mạnh của mình.
Trong học tập:
– Việc học tập có thể ở mức trung bình hoặc mức yếu do các em không chú ý, để tâm học hành. Thay vào đó thường quậy phá, gây mất trật tự trong lớp.
– Đối với những việc không gây hứng thú thì các em sẽ chán nản, ít chú ý. Càng bỏ bê việc học, mất gốc khiến các em càng chán nản khi phải tốn thời gian cho những giờ học, nhiều em lựa chọn bỏ tiết, bỏ học. Điểm số trong học tập, rèn luyện và đạo đức đều không được đánh giá cao.
Xem thêm: Quy định miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, sinh viên
3. Nguyên nhân hình thành học sinh cá biệt:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng có học sinh cá biệt. Một môi trường học tập thường có những học sinh muốn làm theo ý riêng, không tuân thủ các nội quy, quy định. Nếu không nhanh chóng được chấn chỉnh, kịp thời uốn nắn có thể khiến các em càng nhận thức sai lầm, đi vào con đường tệ nạn.
Các nguyên nhân đến từ nhiều khía cạnh như từ phía gia đình, xã hội, nhà trường. Việc quản lý, giáo dục và định hướng cho học sinh không chặt chẽ, không hiệu quả.
3.1. Từ phía gia đình:
Những học sinh cá biệt có thể ảnh hưởng từ đời sống sinh hoạt gia đình, làng xóm. Các em có thể thiếu đi sự quan tâm của gia đình hoặc một số gia đình quá chiều chuộng. Từ bé, các em đã không phải chịu trách nhiệm trước các lỗi sai, không nhận thức được ảnh hưởng từ hành vi. Gia đình không mang đến các mối quan hệ tốt đẹp, sự vui vẻ và hỗ trỡ lẫn nhau từ các thành viên. Có thể các em bị bạo lực, không nhận được tình yêu thương,…
Các tác động trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng lớn đến tâm lý, hình thành tính cách của trẻ. Biểu hiện ra ngoài là sự hư đốn, khó bảo, thích phá, thích làm trái những gì được yêu cầu thực hiện. Trẻ cũng không được dạy các kỹ năng trong cuộc sống, được ôn bài khi về nhà,…
3.2. Từ xã hội:
Trong đời sống xã hội hiện nay có rất nhiều những ảnh hưởng, cám dỗ tiêu cực. Các tệ nạn, các trò tiêu khiển, giải trí,… Các em có thể rơi vào các thú vui và bị tác động bởi đồng tiền. Như nếu muốn có tiền chơi điện tử, các em phải nói dối, ăn trộm tiền của bố mẹ,… Trẻ bỏ các giờ lên lớp để tham gia vào các thú vui khác trong xã hội. Dần dần khiến trẻ nún sâu hơn vào các thói hư tật xấu.
3.3. Nguyên nhân từ phía nhà trường:
Nhà trường khó khăn trong việc theo sát từng học sinh. Chưa có những biện pháp phù hợp trong việc quản lý và giáo dục học sinh. Từ đó, học sinh phải tự ý thức, tuân thủ các nội quy thay vì được tuyên truyền và giáo dục nhận thức. Chưa quan tâm đúng mức tới những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Ví dụ có những em quá đầy đủ về vật chất nhưng lại thiếu thốn về mặt tinh thần. Hay ngược lại có những em lại khó khăn về vật chất, hoàn cảnh éo le,…
Chưa tạo được môi trường thân thiện thực sự để học sinh vui vẻ, thỏa mái khi đến trường. Nhiều tiết học kéo dài một cách áp lực và căng thẳng khiến học sinh cảm thấy chán nản. Từ đó càng làm học sinh muốn tự thay đổi hoặc làm mới môi trường sống của mình.
Giáo viên chưa trở thành chỗ dựa vững chắc, tâm lý cho học sinh. Chưa phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của học sinh. Hoặc có những phương án giải quyết, xử lý chưa hợp lý.
3.4. Nguyên nhân từ chính bản thân học sinh:
Ở các giai đoạn, lứa tuổi mà học sinh có các biến đổi khác nhau về tâm lý. Trong tuổi mới lớn, các em luôn muốn khẳng định mình, muốn được tôn trọng và coi mình như người trưởng thành. Cảm thấy khó chịu khi bị người lớn “điều khiển”. Từ đó khiến các em luôn muốn làm theo ý mình, làm việc học không hiệu quả.
Điều này sẽ dẫn tới việc các em học sinh bị hổng kiến thức căn bản, chán học, bỏ học.
Xem thêm: Đánh giá định kỳ về năng lực, phẩm chất của học sinh tiểu học
4.
Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt:
Tùy từng nguyên nhân, ở phía gia đình, nhà trường cần phối hợp thực hiện các phương pháp tác động tâm lý đến học sinh. Các phương pháp giáo dục có thể thực hiện như:
4.1. Đối với gia đình:
– Gia đình chính là môi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Đặc biệt là ảnh hưởng của cha mẹ, người thân cùng sinh sống. Gia đình chính là một bộ phận quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Mang đến cho trẻ các nhận thức từ đầu về đúng sai phải trái. Phải cho trẻ thấy được các trách nhiệm, phụ giúp công việc trong gia đình.
Mối quan hệ và cách cư xử của các thành viên gia đình phải chuẩn mực. Phải dạy trẻ cách cư xử, dạy các kiến thức đạo đức, cách đối nhân xử thế. Cùng trẻ tham gia vào các mối quan hệ xã hội để hướng dẫn, đồng hành với trẻ.
– Phụ huynh cần thường xuyên trao đổi thông tin với con cái về các vấn đề khác nhau. Trong học tập, xã hội, nói chuyện, nắm bắt được tâm lý của trẻ,… Làm bạn, dạy trẻ trong kinh nghiệm sống nếu muốn đạt được các thành công, kết quả nhất định.
4.2. Đối với nhà trường:
– Trong truyền đạt kiến thức.
Kiến thức luôn cần xuyên suốt, trau dồi trong quá trình học tập. Đặc biệt là với các học sinh cá biệt có lực học yếu kém.
+ Giáo viên cần hệ thống lại hệ thống kiến thức chương trình học. Có quan tâm riêng giúp trẻ tiếp thu được kiến thức cơ bản.
+ Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với khả năng, lượng kiến thức có được. Để học sinh có thể luyện tập ôn lại kiến thức đã học cũng như bài mới;… Từ đó mang đến hứng thú học tập trong khả năng cũng như nền tảng yêu cầu chung cho trẻ.
– Giáo dục trong nhận thức, thái độ:
– Cần quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em học sinh. Thực hiện các hình thức như thi đua, đố vui,… để tạo động lực, hứng thú cho các em. Học tập được tiến hành gần gũi nhất để không mang đến các kiến thức khô khan. Kết hợp thường xuyên kiểm tả việc học tập để tạo thói quen học bài và làm bài đầy đủ. Xây dựng cho các em trách nhiệm trong học tập, đảm bảo các yêu cầu và kiến thức cần đạt được.
– Thường xuyên động viên, khích lệ và tuyên dương kịp thời. Giúp học sinh tự tin, tích cực tham gia vào bài học. Cùng với các hoạt động lành mạnh được tổ chức trong trường, các cuộc thi về học tập, rèn luyện.
– Đối với những học sinh hay mất trật tự, làm việc riêng trong giờ học.
+ Giáo viên cần quan tâm sâu sát tới hoạt động của học sinh. Tới các hành vi, biểu hiện và thái độ trong học tập, rèn luyện.
+ Thường xuyên có các nhắc nhờ và động viên kịp thời. Uốn nắn trong nhận thức của các em, giúp việc tiếp cận các chuẩn mực cuộc sống bên cạnh việc học tập.
+ Cần khích lệ động viên khi các em có tinh thần học hỏi,… Cũng như có phương pháp duy trì và đẩy cao tinh thần đó trong thi đua, khen thưởng.