Hiến định về an sinh xã hội
Hiến định về an sinh xã hội
TS. BÙI NGỌC THANH
Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Thuật ngữ an sinh xã hội (ASXH) đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới (nhất là ở các nước phát triển) để chỉ những chính sách xã hội chủ yếu của Nhà nước. Ở nước ta, nội hàm của thuật ngữ này cũng đã được thể hiện khá sớm trong các chính sách xã hội cơ bản ngay từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992, nhưng chưa được khái quát bằng khái niệm chính thức: ASXH. Cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,thuật ngữ này mới chính thức được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta. Thể hiện hoàn thiện và đầy đủ nhất là trong đề mục thứ VII- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo ASXH trong từng bước và từng chính sách phát triển”
[1]
. Năm 2013, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi) đã chính thức sử dụng thuật ngữ ASXH và đã hiến định những nội hàm cơ bản của nó sau khi Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định.
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Nội hàm cơ bản của an sinh xã hội
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã định hướng và xây dựng, ban hành, thực hiện nhiều chính sách xã hội phù hợp với điều kiện chiến tranh, điều kiện kinh tế – xã hội từng thời kỳ. Đặc biệt, từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đến Đại hội X (tháng 4/2006), các chính sách xã hội cơ bản đã được sửa đổi, bổ sung, nâng tầm, nâng cấp, đổi mới về căn bản. Và đến Đại hội XI, những chính sách căn bản đó đã được “thiết kế” cô đọng, súc tích nhưng khá đầy đủ trong ASXH.Nội hàm cơ bản của ASXH được Đại hội XI xác định như sau: “Tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập… Chăm lo bảo hộ lao động; cải thiện điều kiện làm việc; hạn chế tai nạn lao động… Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng tỷ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp các dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu… Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn… Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn” [1] . Với nội hàm căn bản của ASXH như trên, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra ba loại vấn đề lớn, quan trọng.
Một là, các quan điểm về ASXH, bao gồm:
– Quyền được bảo đảm ASXH của công dân phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ;
– Phải hướng đến mục tiêu bao phủ ASXH toàn dân;
– Phải quan tâm thích đáng đến các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương;
– Xã hội hóa, thu hút rộng rãi các nguồn lực cho ASXH;
– ASXH cũng phải phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Hai là, năm nguyên tắc ASXH thể hiện năm quan điểm nói trên:
– Công dân có quyền và có trách nhiệm tham gia hệ thống chính sách ASXH;
– Thực hiện việc phân phối lại, chia sẻ thu nhập giữa các nhóm dân cư; giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân;
– Bảo đảm công bằng và bền vững, gắn trách nhiệm với quyền lợi, giữa đóng góp và hưởng thụ của các thành viên tham gia chính sách ASXH;
– Đề cao trách nhiệm cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng và Nhà nước trong việc bảo đảm ASXH;
– Trong những thời gian nhất định tập trung hỗ trợ hộ nghèo, các đối tượng dễ bị tổn thương, bảo đảm mức sống tối thiểu cho công dân khi gặp rủi ro, suy giảm hoặc mất các nguồn thu nhập.
Ba là, cơ cấu các nhóm chính sách, gồm bốn nhóm:
– Nhóm một, gồm các chính sách hỗ trợ người lao động tham gia thị trường lao động, tham gia công việc của các cơ quan, tổ chức để có việc làm, có thu nhập ngày càng tăng để chủ động phòng ngừa rủi ro;
– Nhóm hai, gồm các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro do các biến động trong cuộc sống, trong lao động và khi hao mòn sức khỏe.
– Nhóm ba, gồm các chính sách đối với người có công (liệt sĩ và thân nhân chủ yếu của liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến bị địch bắt tù đầy…);
– Nhóm bốn, gồm các chính sách trợ giúp xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhằm hỗ trợ công dân khắc phục các rủi ro, giảm dần bất bình đẳng, thực hiện từng bước công bằng xã hội.
2. Hiến định nội hàm của an sinh xã hội
Hiến pháp2013đã hiến định đầy đủ các nội dung nói trên một cách sinh động, súc tích, cô đọng và khoa học ở nhiều chương, điều, nhưng tập trung nhất là ở Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (các Điều 34, 35, 37, 38) và Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (các Điều 57, 58 và 59).
Hiến pháp năm 1992 quy định các chính sách xã hội trong một chương, Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Số điều được quy định khá nhiều, nhưng nội hàm lại chưa thật đây đủ. Mỗi chính sách quy định cho một loại đối tượng, mà đối tượng và chính sách thì nhiều loại, không thể đưa tất cả vào Hiến pháp được, do đó và vì thế “không ôm” được đầy đủ các đối tượng, mà lại có phần tản mạn, chưa thật logic. Hiến pháp 2013 đã sử dụng một thuật ngữ có tính bao quát – thuật ngữ ASXHnên đã khắc phục được những khiếm khuyết đó. Cũng là ASXH, nhưng nội dung được quy định ở hai chương: những vấn đề thuộc phạm trù tự do, dân chủ thì được quy định tại Chương II về nội dung quyền con người; những vấn đề thuộc chính sách, đối tượng cụ thể thì được quy định tại Chương III phần nội dung các vấn đề xã hội.
Ở Chương II, trước hết là quy định một Điều có tính khái quát, một tuyên ngôn rõ ràng, minh bạch cho tất cả mọi công dân Việt Nam: “Công dân có quyền được bảo đảm ASXH”(Điều 34).
Tiếp theo, Hiến pháp quy định một nội dung có tính cốt tử của việc duy trì đời sống xã hội, đời sống của mỗi con người, đó là lao động – việc làm (nguồn gốc của của cải vật chất và giá trị tinh thần). Một khi người lao động làm việc, ngoài tính tự do, dân chủ vốn là quyền con người thì lao động – việc làm phải có điều kiện và phải được đặt trong những khuôn khổ nhất định:
“1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.
2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn, được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu” (Điều 35).
Để thể hiện quan điểm của Đảng về xã hội hóa tạo việc làm và trong việc làm phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ lao động, Điều 57 (Chương III) đã quy định khá khúc chiết bằng hai khoản như sau.
Điều 57
1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động.
2. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Có thể nói, bình đẳng về lợi ích hợp pháp và xây dựng quan hệ lao động (tại doanh nghiệp) tiến bộ, hài hòa và ổn định vừa là những vấn đề thời sự, cấp bách, vừa là những vấn đề chiến lược lâu dài trong quản lý sản xuất – kinh doanh và trong quản lý lao động nhằm hạn chế có hiệu quả các biến động lao động bất thường, giữ ổn định tương đối lực lượng lao động để phát triển sản xuất – kinh doanh có hiệu quả.
Trở lại Chương II, các đối tượng đặc thù trong xã hội (trẻ em, thanh niên, người cao tuổi) được hiến định trong một Điều chung; Điều này vừa thể hiện quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng, vừa phản ánh tính ưu việt của xã hội ta (vừa chăm sóc, vừa bảo vệ, vừa động viên, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng):
“1. Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc hoặc lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.
2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.
3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 37).
Một vấn đề chung khác mà mọi người đều phải có và phải được bình đẳng, đó là sức khỏe. Cần lưu ý rằng, sức khỏe không chỉ bao hàm tình trạng không có bệnh tật hay thương tật mà là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội. Những nội dung đó đã được hiến định tại Điều 38:
“1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.
2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng”.
Ở Chương III (quy định về các vấn đề xã hội), các chính sách cho mọi người dân nói chung, cho các đối tượng đặc biệt nói riêng đã được hiến định khá rõ ràng, làm cơ sở, là căn cứ cho việc sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các đạo luật mới cụ thể, tương ứng sau này. Về sức khỏe của Nhân dân nói chung, vùng miền và đối tượng đặc thù nói riêng được quy định tại Điều 58:
“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình”.
Đất nước ta phải trải qua hàng trăm năm đô hộ của thực dân, đế quốc và phải đương đầu các cuộc chiến tranh xâm lược, chiến tranh bảo vệ lãnh thổ, nên số lượng đối tượng là người có công với đất nước rất lớn. Sau chiến tranh, dù nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển khá, nhưng các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn vẫn là một số lượng lớn. Điều 59 đã quy định chính sách cho các đối tượng này như sau:
“1. Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước.
2. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác.
3. Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở”.
Ưu điểm của phương pháp hiến định ASXH trong Hiến pháp 2013 có thể nói ngắn gọn là: Có tầm khái quát cao nhưng lại đầy đủ; cập nhật được những vấn đề mới vừa là sách lược, vừa có tầm chiến lược; nêu bật lên được các chính sách trụ cột của ASXH và phương thức thực hiện.
3. Mấy bình luận về việc hiến địnhan sinh xã hội trong Hiến pháp 2013
3.1. Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nền sản xuất xã hội với việc bảo đảm ASXH.
Quy mô và hiệu quả của nền sản xuất càng cao thì điều kiện vật chất để thực thi hệ thống ASXH càng tốt và ngược lại. Nhà nước có vai trò to lớn trong việc quản lý, điều hành, gắn chặt hai hệ thống này với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Không như các ý kiến chủ quan cả quyết rằng, cứ mặc sức mở rộng quy mô và phát triển tự do, dân chủ các thành phần kinh tế, nhất là phát triển hết tốc lực kinh tế tư nhân thì tất thảy mọi vấn đề xã hội sẽ “tự động” được giải quyết. Họ cho rằng, kinh tế mạnh lên mặc nhiên tự nó sẽ giải quyết được các vấn đề xã hội, ASXH mà không cần đến vai trò điều tiết của Nhà nước. Thực tế không đúng như vậy, vì trong các nền kinh tế được xếp vào hàng đầu của thế giới hiện nay, vẫn có không ít quốc gia có các vấn đề xã hội, ASXH nhiều mặt lại yếu kém, thậm chí là tồi tệ, khi hàng chục triệu người, thậm chí hàng bốn, năm chục triệu người “bị văng ra ngoài lề xã hội” [2] . Ở nước ta, ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã khẳng định “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội; thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực phát triển kinh tế” [3] . Quan điểm, đường lối đó đã được hiến định ngay trong Hiến pháp năm 1992 và đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Trải qua hơn một phần tư thế kỷ thực thi công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết và hoàn thiện thành luận điểm rõ ràng, minh bạch và đã được toàn dân nhất trí hiến định trong Hiến pháp 2013 thể hiện ở các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ của công dân và các chính sách xã hội khác.
Nếu Hiến pháp năm 1992 mới chỉ hiến định những chính sách chủ yếu đối với những đối tượng nhất định, thì Hiến pháp 2013 đã hiến định ASXH thành một hệ thống và có khả năng bao phủ đến tất thảy mọi lớp người trong xã hội, “Công dân có quyền được bảo đảm ASXH” (Điều 34); “phát triển hệ thống ASXH… Nhà nước tạo bình đẳng và cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội” (Điều 59). Đó cũng là một nét ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hay là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
3.2. Hiến định hệ thống ASXH như một mạng lưới có các tầng, nấc để bảo đảm không có thành viên nào trong xã hội bị lọt khỏi lưới an sinh.
Chức năng của hệ thống ASXH là phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.Để thực hiện có hiệu quả các chức năng đó, Hiến pháp đã hiến định “mạng lưới ASXH” thành bốn tầng nấc:
– Tầng một, gồm nhóm các chính sách tạo mọi điều kiện tới mức tối đa để công dân -người có sức lao động hoặc còn một phần khả năng lao động – tham gia thị trường lao động, tham gia công việc của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, để có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho mình và gia đình. Đây là nhóm chính sách cơ bản, lớn nhất trong hệ thống ASXH mang tính động viên của Nhà nước và tính chủ động của công dân (tuyệt đại bộ phận công dân trong độ tuổi lao động, có sức lao động được điều chỉnh bởi nhóm chính sách này, chỉ trừ học sinh, sinh viên trong tuổi lao động còn đi học). Các chính sách này hoàn toàn bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân trong hoạt động lao động phù hợp với năng lực, trình độ, sở thích, hoàn cảnh của mỗi người và được bảo đảm các điều kiện theo hiến định “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi…” (Điều 35). Thực hiện có hiệu quả nhóm chính sách này chính là thực hiện chức năng chủ động phòng ngừa rủi ro.
– Tầng hai, gồm các chính sách đối với những người và các gia đình có công với đất nước. Nhóm chính sách này mang tính chất “đền ơn, đáp nghĩa” và đạo lý “uống nước nhớ nguồn; ăn quả, nhớ người trồng cây” – một truyền thống tốt đẹp, nhân hậu, thủy chung của người Việt, nhằm bù đắp lại một phần quan trọng mồ hôi, xương máu, sức lực (lao động quá khứ) của những người, những gia đình đã cống hiến cho dân tộc, cho đất nước. Đó là những người hoạt động cách mạng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; liệt sĩ và thân nhân chủ yếu của liệt sĩ; anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, bà mẹ Việt Nam anh hùng, anh hùng lao động trong thời chiến; thương binh, bệnh binh, người trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu bị nhiễm chất độc hóa học; người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày; người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; người có công giúp đỡ cách mạng. Có thể coi đây là nhóm chính sách đặc biệt (tuyệt đại đa số các nước khác không có) của ASXH Việt Nam – một nước đã làm cách mạng từ trước năm 1930 đến những cuộc chiến tranh ác liệt, kéo dài chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp 2013 đã khẳng định “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước” (khoản 1 Điều 59).
– Tầng ba, gồm nhóm chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp nhằm bù đắp phần thu nhập bị giảm sút hoặc bị gián đoạn; khắc phục tình trạng suy giảm sức khỏe vì bệnh tật, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Đối tượng của nhóm chính sách này cũng khá lớn, bao gồm những người đã bước ra khỏi quá trình lao động (người nghỉ hưu, người già quá tuổi lao động; người tạm thời mất việc làm, người trong thời gian chuyển đổi công việc); tất cả công dân từ trẻ sơ sinh đến người cao tuổi nhất có yêu cầu khám, chữa bệnh và điều trị. Hiến pháp khẳng định, “mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế…” (khoản 1 Điều 38); “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân…” (khoản 1 Điều 58). Thực thi tốt nhóm các chính sách này cũng chính là việc chủ động thực hiện chức năng giảm thiểu rủi ro bất trắc của ASXH.
– Tầng lưới thứ tư, gồm nhóm các chính sách bảo trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường cơ hội tiếp nhận các dịch vụ xã hội, trợ giúp vượt qua những rủi ro khó lường, ngoài tầm kiểm soát (do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hạn hán, bão lũ thường xuyên, tai nạn bất ngờ…). Đối tượng của nhóm chính sách này khá đa dạng, phần lớn rơi vào các nhóm người yếu thế (người nghèo do điều kiện sản xuất khó khăn, dân cư các vùng bão lũ, người tàn tật, ốm đau dài ngày, người bị bệnh tật hiểm nghèo, người bị tai nạn bất thường, người cao tuổi không nơi nương tựa…). Hiến pháp cũng đặc biệt chú ý đến các đối tượng này và đã hiến định “Nhà nước… có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn” (khoản 1 Điều 58) và “Nhà nước… có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác” (khoản 2 Điều 59). Khối lượng công việc của nhóm chính sách này vừa rất lớn, vừa thường xuyên, nhưng đó là nhiệm vụ tất yếu để thực thi chức năng rất quan trọng của ASXH – chức năng khắc phục các loại rủi ro, trong đó trợ cấp xã hội là chính sách sau cùng.
3.3. Hiến định về ASXH trong Hiến pháp 2013 đã có sự hội nhập quốc tế sâu rộng
– Trước hết, Việt Nam là một trong 189 quốc gia nhất trí phấn đấu thực hiện đến năm 2015tám mục tiêu trong Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ Đại hội đồng Liên hiệp quốc tháng 9/2000 tại New York (1. Triệt để loại trừ tình trạng bần cùng và thiếu ăn; 2. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học; 3. Nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ; 4. Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; 5. Cải thiện sức khỏe bà mẹ; 6. Phòng, chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác; 7. Đảm bảo sự bền vững của môi trường; 8. Tăng cường quan hệ đối tác toàn cầu cho phát triển).
Hiến pháp 2013 đã thể hiện hoàn chỉnh các nội dung đó. “Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu về việc thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ và là một trong sáu quốc gia có những thành tựu đáng kể trong việc xóa đói giảm nghèo… Việt Nam cũng có những thành tích tốt trong giáo dục cơ bản, chỉ số y tế, giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ em sơ sinh. Tôi nghĩ về tổng thể, thành tích này rất đáng được ca ngợi và ghi nhận ở Liên hiệp quốc cũng như toàn cầu” [4]
– Thứ hai, hệ thống ASXH của mỗi nước có thể về nội hàm có những điểm, những chi tiết khác nhau, nhưng có điểm chung nhất là hệ thống đó đều được thiết kế đa tầng, nhằm bảo vệ, trợ giúp các đối tượng khác nhau. Hệ thống ASXH của nước ta được hiến định trong Hiến pháp 2013 cũng gồm nhiều tầng, nấc như đã trình bày, chỉ có khác là chúng ta đảm bảo ASXH cho tất cả công dân, còn một số nước (thường là các nước kém phát triển có thu nhập thấp) chỉ đảm bảo cho một số đối tượng nhất định.
– Thứ ba, đối với số đông các nước phát triển, hệ thống ASXH có sự chia sẻ giữa các chủ thể: Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và một số chủ thể khác (các Quỹ xã hội). Ở nước ta, về nội dung này cũng tương tự nhưng được khái quát bằng thuật ngữ xã hội hóa các nguồn lực đảm bảo cho ASXH được thực thi có hiệu quả.
– Thứ tư, trong quá trình nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước, chúng ta cũng đã nhận ra những hạn chế của hệ thống ASXH một số nước. Có những nước theo mô hình kinh tế thị trường tự do đã nhấn mạnh một chiều, “thần thánh hóa phép mầu của thị trường”, tin tưởng thị trường tự nó sẽ điều tiết tất cả, kể cả công bằng xã hội. Những nước đó đã phải chịu những hậu quả lớn, thậm chí là rối loạn xã hội. Lại có một số nước theo mô hình kinh tế thị trường xã hội, thực hiện Nhà nước phúc lợi. Hệ thống ASXH vô cùng hào phóng, Nhà nước gần như chu cấp hoàn toàn. Từ đó đã nảy sinh sự ỷ lại, thụ động, trì trệ, dần dần triệt tiêu tính tích cực, tính chủ động của công dân. Các nước đó cũng đã phát hiện sự bất cập này và đang sửa đổi hệ thống ASXH. Họ đang cố gắng tạo ra và kích thích tính năng động, tinh thần trách nhiệm của công dân… Ở đất nước ta, nhân dân ta có truyền thống tự lực cánh sinh, chủ động sáng tạo, nên Hiến pháp 2013 đã đề cao quyền của mọi công dân được tham gia hệ thống ASXH và đồng thời phải có trách nhiệm với hệ thống ASXH mà mình thụ hưởng. Hiến pháp cũng đã khẳng định vai trò của Nhà nước, trách nhiệm của xã hội, nhiệm vụ của gia đình và cá nhân trong từng chính sách của hệ thống này./.
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trang 227 – 230.
[2] Năm 2012, nước Mỹ có 46,2 triệu người sống dưới mức đói nghèo (chiếm 15,7% dân số; 27,6% người Mỹ da đen, 25,3% người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha, 9,8% người Mỹ da trắng và hơn 20% người Mỹ dưới 18 tuổi sống dưới mức đói nghèo). Nguồn: Nhân dân điện tử dẫn theo Washington Post; Báomới.com 13/9/2012.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Nxb Sự Thật, H. 1991, tr 73.[4] Bà Pratibha Mehta – Điều phối viên của Liên hiệp quốc tại Việt Nam – trả lời phỏng vấn của VTV online ngày 25/9/2013 (khi Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả 5/8 mục tiêu Thiên niên kỷ).
(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 14(270), tháng 7/2014)
Các tin khác
Trở về trang trước
Xem tiếp các tin khác
Tiêu điểm
Ấn phẩm xuất bản
Thống kê truy cập
25638509
Tổng truy cập