HỌC TRUYỀN HÌNH

B – TÀI LIỆU

Xin giới thiệu tài liệu tham khảo tôi viết về truyền hình, nếu các bạn sử dụng xin nêu rõ nguồn trích dẫn.

Đinh Ngọc Sơn (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)

TRUYỀN HÌNH TRONG HỆ THỐNG

CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG

Chương1:

SỰ RA ĐỜI CỦA TRUYỀN HÌNH

1.Quan niệm về truyền hình:

Truyền hình đã trở thành phương tiện truyền thông quen thuộc trong mỗi gia đình, hiện nay chiếc ti vi được người ta sáng chế theo chiều hướng màn hình rộng ra, mỏng lại (LCD) và loại màn hình nhỏ gọn (ví dụ: xem truyền hình trên điện thoại di động). Sự tiện dụng theo hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện đang làm cho truyền hình có những hướng phát triển mới. Việc phát sóng truyền hình qua vệ tinh đã làm không gian trái đất “thu nhỏ”, hàng nghìn kênh truyền hình đan xen trong không gian xung quanh ta. Có nhiều quan niệm về truyền hình được nhìn nhận cả tích cực và tiêu cực nhưng vai trò của truyền hình trong xã hội thì khó có thể phủ nhận.

Vậy truyền hình là gì?

Television là từ ghép, trong tiếng La Tinh: “tele” có nghĩa là “xa” còn “vision” là “nhìn”, như vậy sự kết hợp của nó cho thấy nghĩa: nhìn từ xa. Truyền hình ra đời đánh dấu mốc quan trọng khi mong muốn nhìn được “từ xa” của con người trở thành hiện thực.

Trên phương diện kỹ thuật thì truyền hình là quá trình biến đồi từ năng lượng ánh sáng tác động qua ống kính máy thu hình thành năng lượng điện, nguồn tín hiệu điện tử được phát sóng truyền đến máy thu hình và lại biến đổi thành năng lượng ánh sáng tác động vào thị giác, người xem nhận được hình ảnh thông qua màn hình.

Về mặt nội dung: Truyền hình là loại hình truyền thông mà thông điệp được truyền trong không gian tích hợp cả hình ảnh và âm thanh tạo cho người xem cảm giác sống động của hiện thực cuộc sống

2.Lịch sử ra đời truyền hình

a. Trên thế giới

Truyền hình là loại hình ra đời gắn liền với phát minh của các nhà khoa học, sự ra đời của chiếc ti vi được kế thừa từ nhiều nghiên cứu trước đó. Hơn nữa trong giai đoạn đầu tiên, các nhà khoa học của một số quốc gia đều nghiên cứu và thử nghiệm về truyền hình. Mỗi thế hệ tivi mới ra đời lại đánh dấu một bước phát triển của truyền hình và những chiếc ti vi cũ lại trở thành “lạc hậu”. Sự phát triển mạnh mẽ của các loại thiết bị truyền hình góp phần hoàn thiện hệ thống truyền hình trên toàn thế giới.

Ai phát minh ra truyền hình

Cho đến nay khó có câu trả lời làm hài lòng mọi người, bởi vì giai đoạn đầu của truyền hình mỗi quốc gia đều cho rằng mình có người “phát minh” ra truyền hình. Người Mỹ tin rằng đó là Jenkins hoặc Frarnswoth. Người Nhật tin đó là Takayanagi. Ở Nga, Boris Rosing. Ở Pháp, Belin và Barthelemy. Ở Đông Âu, Von Mihaly. Ở Đức, Karolus. Ở Anh có sự chọn lựa Campbell –Swinton – là người đưa ra khái niệm và Baird là người thử nghiệm thực hành.

Truyền hình đã được nghĩ ra (phác thảo trên giấy) trong một thời gian và chờ đợi sự phát triển theo kịp của lĩnh vực điện tử. Nó đã bắt kịp vào đầu những năm 1920 với sự nhanh nhạy của tế bào quang điện và đèn điện tử. khi đó chức năng quét hình chưa thể thực hiện bằng điện tử.

Paul Nipkow đã phát minh một phương pháp quét hình cơ khí vào năm 1884. Phương pháp này dựa trên nền tảng cơ bản dùng một đĩa quay với đường xoáy chon ốc, trên đó có các lỗ thủng. Mỗi vòng quay sẽ cho 1 frame hình. Đĩa Nipkow đã được những người chế tạo ti vi sử dụng làm nền tảng cho hệ thống truyền hình của họ.

Khái niệm quét hình đồng bộ hiển thị bằng điện tử được biết đến vào năm 1908 bởi Campbell Swinton. Ông đã đưa ra hệ thống “Nhìn xa điện tử” như một đề xuất trong thư gửi Nature (18/6/1908) và các bài giảng (1911) minh họa bằng sơ đồ mạch. Điều này gần như tương xứng sẽ dẫn đến sự phát triển của hệ thống điện tử vào năm 1920 và những điều thực hành thực tế những năm 1930.

Là một kỹ sư nổi tiếng nhất được cho là người đầu tiên chứng minh hệ thống truyền  hình làm việc. Ông đã nghiên cứu tại trường đại học Glasgow và bị gián đoạn bởi sự bùng nổ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Về sau ông chuyển đến bờ biển phía nam nước Anh và ông áp dụng tạo ra hệ thống truyền hình, một giấc mơ của nhiều nhà khoa học trong những thập kỷ qua. Thiết bị thô đầu tiên của ông không đồng bộ và đến cuối năm 1924 ông đã truyền được hình ảnh “mập mờ” qua vài bước chân. Vào ngày 26/1/1926 ông là người đầu tiên trên thế giới chứng minh một hệ thống truyền hình hoạt động thực sự. Năm 1927 hệ thống truyền hình của ông đã truyền hình ảnh ở khoảng cách 438 dặm bằng đường điện thoại từ London đến Glasgow, và ông thành lập Công ty Phát triển Truyền hình Baird (BTDC). Năm 1928 Công ty của ông lần đầu tiên truyền thành công hình ảnh truyền hình qua Đại Tây Dương giữa London và New York và truyền những hình ảnh đầu tiên đến một chiếc tầu giữa Đại Tây Dương. Vào năm 1929 Bưu điện Đức đã đề nghị ông cung cấp để thử nghiệm dịch vụ truyền hình dựa trên hệ thống cơ khí của mình. Giai đoạn đầu âm thanh và hình được gửi thay phiên, và về sau nó được truyền đồng bộ (từ năm 1930). Tuy nhiên, hệ thống truyền hình cơ khí của Baird đã nhanh chóng trở nên lỗi thời vì hệ thống điện tử phát triển, chủ yếu của Marconi ở Mỹ.

Một số mốc phát minh:

Năm1862: Abbe Giovani, nhà vật lý người Italia truyền được hình ảnh tĩnh qua khoảng cách dài bằng một hệ thống mà ông gọi là “Pantelegraph” (hệ thống điện báo toàn năng)

Năm 1873: hai nhà khoa học Anh là May và Smith đã làm thí nghiệm với các phân tử Selen và ánh sáng mở ra hy vọng truyền hình ảnh bằng tín hiệu điện tử.

Năm 1884: Paul Gottlieb Nipkow đưa ra phát minh về hệ thống ti vi cơ điện tử đầu tiên. Thiết kế đĩa quay của Nipkow được xem là đã chuyển đổi hình ảnh thành các điểm chấm với 18 đường phân giải.

Năm 1900: Tại hội chợ quốc tế Paris, lần đầu tiên Constantin Perskyi đưa ra “khái niệm” television, ông tóm tắt lại công nghệ điện tử, đề cập tới thành quả của Nipkow và các đồng sự.

Năm 1906: Boris Rosing đã kết hợp đĩa quay của Nipkow trước đó và đèn chân không để xây dựng hệ thống ti vi cơ điện tử đầu tiên.

Năm 1911: Boris Rosing và Vladimir Kosma Zworykin thành công trong việc tạo ra hệ thống ti vi sử dụng bộ phận gương để phát hình nhưng hình ảnh qua dây tới ống điện tử Braun (ống Cathode) còn rất “thô”.

Năm 1924: John Logie Baird là người đầu tiên truyền được bóng ảnh động dựa trên ứng dụng từ hệ thống cơ điện tử cơ bản của Nipkow trước đây.

Năm 1925: John Logie Baird truyền thành công hình ảnh thật đang chuyển động.

Năm 1926: tại phòng thí nghiệm của mình John Logie Baird cho ra mắt chiếc ti vi cơ điện tử đầu tiên, nó truyền được hình ảnh trong 2 phút, không có âm thanh.

Truyền hình Mỹ:

Chiếc ti vi điện tử đầu tiên ở Mỹ được chế tạo thành công vào ngày 7/9/1927, hệ thống điện tử bên trong do Philo Taylor Farnsworth, một nhà phát minh người Mỹ mới 21 tuổi thiết kế. Fransworth đã bắt đầu nghiên cứu một hệ thống có thể bắt được và phát đi những tín hiệu có hình ảnh động bằng dạng sóng như sóng radio. Trước Farnsworth đã có Boris Rosing, nhà khoa học người Nga phát kiến truyền hình ảnh theo kiểu như vậy nhưng phát minh của Farnsworth tiến bộ hơn ở chỗ ông sử dụng những chùm electron để quét hình ảnh, một nguyên bản sơ khai nhất của chiếc ti vi hiện đại ngày nay.

Lúc đó, tập đoàn truyền thông lớn nhất nước Mỹ RCA đã mua bản quyền phát minh của Farnsworth và đầu tư cho dự án phát triển truyền hình tại Mỹ.

b.Sự ra đời của Truyền hình Việt Nam

Truyền hình Việt Nam có lịch sử ra đời đặc biệt, khi đó đất nước đang còn chiến tranh. Năm 1966 Ban Tuyên giáo Trung ương đã giao nhiệm vụ cho Tổng cụ thông tin và Đài tiếng nói Việt Nam lên phương án xây dựng vô tuyến truyền hình. Đến 4/1/1968 phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đã ký quyết định thành lập “Xưởng phim vô tuyến truyền hình Việt Nam” trước mắt đẩy mạnh tuyên truyền ra nước ngoài về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam thông qua các phim tài liệu gửi ra phát sóng truyền hình ở nước ngoài. Trụ sở đầu tiên của xưởng phim vô tuyến truyền hình phải ở nhờ xưởng phim đèn chiếu số 5 Thi Sách – Hà Nội. Thiết bị đầu tiên là 4 chiếc máy quay phim 16 ly đã cũ, và một số hộp phim từ hàng viện trợ của Hội hữu nghị Xô – Việt trong đó có bàn dựng phim 16 ly. Khi đó phim đi quay về phải tráng bằng tay, ngâm thuốc trong chậu rửa mặt. Phim 16 ly khi đó hình ảnh đen trắng và không có tiếng động.

Cuối năm 1969 nhà nước đã cấp cho Xưởng một khu đất tại Chùa Bộc để xây Đài phát hình và trường quay, nhưng do khả năng hạn hẹp và thiếu thiết bị nên Xưởng phim không tiếp tục hoàn thành “sứ mệnh” làm truyền hình được.

Trong khi đó, năm 1967, ông Trần Lâm, khi đó là Tổng biên tập đài Tiếng nói Việt Nam, nhân chuyến tham Cuba đã ký với Viện Phát thanh và Truyền hình Cuba để “mượn” sóng phát thanh đối ngoại và nhờ đào tạo cán bộ làm truyền hình. Tháng 6/1968 Đài tiếng nói Việt Nam gửi 18 kỹ sư và kỹ thuật viên giỏi sang Cuba học tập. Khi đó ở Miền Nam, Mỹ đã cho xây dựng đài truyền hình và phát sóng ở một số khu vực. Cuối tháng 11/1969 đoàn cán bộ kỹ thuật học ở Cuba về nước với các kiến thức về truyền hình và nhiều sơ đồ máy móc thiết bị truyền hình.

Đầu năm 1970, các cán bộ kỹ thuật của Đài tiếng nói Việt Nam bắt tay vào tìm kiếm thiết bị và lắp ráp camera. Tháng 8/1970, ở Cục kỹ thuật phát thanh 45 – Bà Triệu – Hà Nội đã cho chạy thử 2 máy ghi hình điện tử với tên gọi “NT.1” (Ngựa trời 1) và “NT.2” (Ngựa trời 2). Đây là 2 camra được lắp từ những linh kiện cũ rời rạc, trong đó 2 ống đèn điện tử cũ phải liên hệ “kỳ công” xin từ Liên Xô về.

Theo đúng kế hoạch của Bộ biên tập, vào ngày 7/9/1970 nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Đài tiếng nói Việt Nam sẽ thử nghiệm buổi phát hình đầu tiên. Lễ “ra mắt” được tổ chức tại phòng thu ca nhạc lớn nhất của Đài tiếng nói Việt Nam tại 58, Quán Sứ, Hà Nội. Có hơn 30 khách mời trong đó có Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Hoàng Tùng, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Phan Anh cùng chuyên viên cao cấp của văn phòng Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa- Thông tin …

Đúng 19 giờ, tất cả chủ và khách đều có mặt trong phòng thu lớn, được ngăn đôi bằng một tấm màn. Một bên là khách ngồi xem, một bên là camera “Ngựa trời” bắt hình các tiết mục và nối liền sang máy thu hình bằng dây cáp. Chương trình ra mắt có phát thanh viên Lan Hương đọc bản tin 15 phút, rồi đến chương trình ca nhạc kéo dài 1 giờ do các ca sỹ nổi tiếng biểu diễn.

Những người có mặt lần đầu tiên được xem truyền hình rất xúc động. Mọi người đều “dán” mắt vào 2 màn hình: một cái thu sóng từ ăng ten, một cái làm màn hình kiểm tra nối từ máy quay phim. Cả hai chiếc tivi này đều mượn tạm của sinh viên học ở Liên xô mang về. Người xem có thể đối chiếu hình ảnh từ 2 máy thu hình và hài lòng với kết quả của buổi phát truyền hình đầu tiên này. Chỉ một tuần sau, Hội đồng Chính phủ đã quyết định giao cho Đài tiếng nói Việt Nam nhiệm vụ  làm truyền hình thí nghiệm và cấp cho 400 nghìn rúp để mua thiết bị ban đầu. Sau buổi thử nghiệm đó, vào dịp đón năm mới Tân Hợi (1971), Đài tiếng nói Việt Nam đã phát sóng truyền hình, công suất máy phát sóng 400 wat phủ sóng khoảng 50 km. Ngày 27/1/1971 (30 tết âm lịch) Truyền hình Việt Nam chính thức ra mắt nhân dân thủ đô.

Đến năm 1972, nhà nước cấp khu đất tại Giảng Võ để xây dựng Trung tâm truyền hình mới, đến 1976 thì công trình này mới hoàn tất.

Năm 1975 ,  Đài tiếng nói Việt Nam cử 1 đoàn cán bộ kỹ thuật thạo về truyền hình tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Hơn 100 cán bộ đã lên đường hướng về Sài Gòn sẵn sang tiếp nhận “sóng” truyền hình. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo nên sau khi giải phóng Sài Gòn, ngày 1/5/1975 đã phát chương trình truyền hình của cách mạng  và đều đặn duy trì sóng truyền hình.

Từ 25/6/1976 truyền hình Việt Nam thôi phát thử nghiệm chuyển sang phát sóng chính thức hàng ngày.

Tháng 8/1980 trạm Hoa Sen được Liên xô giúp đỡ xây dựng, lần đầu tiên người dân Việt Nam được xem truyền hình 2 sự kiện quan trọng: Olimpic Moscova 1980 và Phạm Tuân bay vào vũ trụ. Đến năm 1983 truyền hình Trung ương chính thức lấy video thay chop him nhựa. Máy quay lúc này chủ yếu là dân dụng hệ VHS và bán chuyên dụng UMATIC. Từ năm 1985 ở Việt Nam đã có cơ sở lắp ráp được ti vi màu do đó số lượng ti vi tăng nhanh. Đến năm 1987 Đài truyền hình Việt Nam được coi là một tờ báo hình trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Biên chế Đài truyền hình Việt Nam vào năm 1987 là 660 người.

Đầu năm 1991, Đài truyền hình Việt Nam thuê vệ tinh để phủ sóng cả nước. Đến năm 2008, Việt Nam đã có vệ tinh Vinasat 1 phóng lên quỹ đạo, mở ra một giai đoạn mới về chinh phục không gian. Một số đài truyền hình địa phương đã thuê kênh vệ tinh phát sóng. Đài phát thanh truyền hình TP HCM, Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Nai, Hậu Giang… đã phát sóng qua vệ tinh VINASAT 1 từ đầu năm 2009.

3.Xu hướng phát triển của truyền hình hiện đại

Đa dạng thông tin:

Ngày nay công chúng bỏ ra khoảng 2-3 tiếng mỗi ngày ngồi trước máy thu hình, điều này cho thấy nội dung các chương trình truyền hình ngày càng phong phú. Mỗi đài truyền hình tổ chức nhiều kênh thông tin khác nhau, mỗi kênh truyền hình thường hướng tới nhóm đối tượng khán giả và tìm cách tiếp cận tốt nhất.

Quá trình truyền thông trong xã hội hiện đại đang làm thay đổi cách làm truyền hình truyền thống, ngày nay có những kênh truyền hình tập hợp các video clip của công chúng và phát sóng. Các đoạn hình ảnh được thu thập khắp nơi do khán giả gửi đến làm phong phú thêm những “điểm nhìn” về mọi góc độ của cuộc sống. Những thiết bị ghi hình ngày càng nhỏ gọn giúp cho việc tác nghiệp dễ dàng hơn. Thông tin nhanh trực tiếp về sợ kiện luôn thu hút người xem.

          Tăng tính tương tác

Ngày nay các chương trình truyền hình được thiết kế tăng tính tương tác với khán giả, đây là hình thức tiếp nhận những phản ứng trong giao tiếp từ phía người xem. Việc khán giả tham gia vào chương trình ngày càng phổ biến, có thể thông qua điện thoại, tin nhắn, e-mail, web cam, blog,…đã tạo nên hứng thú mới cho khán giả. Cùng với nó là hàng loạt các dịch vụ gia tăng phát triển như dịch vụ thông tin, dịch vụ quảng cáo và bán hàng qua truyền hình.

Sự chia sẻ thông tin ngay lập tức từ phía khán giả mở ra nhiều hướng phát triển cho truyền hình hiện đại. nó mang đến cho người xem những chủ đề “nóng” những quan điểm mới mà mọi người có thể tham gia.

          Phát triển kênh dịch vụ – giải trí

Số lượng các kênh truyền hình giải trí ngày càng tăng: kênh phim truyện, âm nhạc, thời trang, mua sắm, du lịch …

Chương 2:

BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH

                                     

Truyền hình là phương tiện truyền thông chuyển tải nhiều loại thông tin khác nhau: báo chí, khoa học giáo duc, điện ảnh, ca nhạc, giải trí, quảng cáo..v.v..

Do đó khi nghiên cứu về truyền hình cần phân biệt các loại thông tin, mục đích và đối tượng truyền thông của các chương trình đó.

  1. Thông tin báo chí trên truyền hình

Một đài truyền hình trở thành cơ quan báo chí khi có hoạt động sản xuất các sản phẩm báo chí và phát sóng định kỳ. Mỗi quốc gia luật pháp quy định về việc thành lập đài truyền hình khác nhau.

Như vậy, một đài truyền hình được thành lập với tư cách là cơ quan báo chí dựa trên những yếu tố sau:

  • Luật pháp công nhận
  • Nhân lực đảm bảo cho hoạt động tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí phát sóng định kỳ.
  • Cơ sở vật chất, kỹ thuật.
  • Tài chính.

Nhân lực đảm bảo cho hoạt động nội dung của một đài truyền hình rất đa dạng, tùy vào quy mô sản xuất để phân bổ nhân lực vào các bộ phận:

Bộ phận nội dung: Những người có chuyên môn về biên tập, đạo diễn, quay phim, dẫn chương trình…

Bộ phận kỹ thuật: những người được đào tạo về kỹ thuật máy quay, bàn dựng, âm thanh, ánh sáng, xe màu…

Bộ phận hỗ trợ: những người làm sân khấu, trang điểm…

Nhân lực cho đài truyền hình cần tính chuyên nghiệp và khả năng phối hợp tốt trong quá trình sản xuất chương trình truyền hình.

  1. Một số hình thức chuyển tải thông tin báo chí trên truyền hình:

Bản tin thời sự:

Đây là chương trình quan trọng nhất của một đài truyền hình với tư cách là cơ quan báo chí. Nó hàm chứa những đặc điểm nổi bật:

Thông tin thời sự được cập nhật liên tục: cung cấp cho người xem những tin tức mới nhất về sự kiện đang diễn ra, có khả năng đưa tin nhanh nhất bằng truyền hình trực tiếp. Các bản tin được sản xuất liên tục theo chu kỳ thời gian, có thể là 1 tiếng, 3 tiếng, 6 tiếng, 12 tiếng.v.v… Ví dụ: bản tin 6giờ, 9giờ, 12 giờ, 15 giờ. Chu kỳ bản tin càng ngắn thì tốc độ làm việc của ban biên tập và các ê kíp sản xuất càng cao. Đòi hỏi tính chuyên nghiệp trong tổ chức sản xuất để tiết kiệm chi phí. Các phóng viên phải theo bám sự kiện và biết “nuôi” tin tức để cập nhật trong từng bản tin.

Đảm bảo cơ cấu thông tin các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, thể thao…nhờ đó mà nhu cầu thông tin của nhiều đối tượng khán giả được đáp ứng.

Đảm bảo thông tin các vùng miền: mỗi đài truyền hình đều xác định đối tượng khán giả trong một không gian địa lý, việc xây dựng kết cấu bản tin và đưa tin tức đều khắp các khu vực là cần thiết, nó đảm bảo sự công bằng trong tiếp nhận tin tức của công chúng.

Các chuyên mục

Ngoài bản tin thời sự, các chuyên mục là hình thức thông tin sâu về một lĩnh vực, ví dụ: chuyên mục kinh tế, thể thao, an toàn giao thông, sức khỏe…. chuyên mục được kết cấu tương đối ổn định về hình thức và định kỳ phát sóng. Nó được duy trì trong một thời gian nhất định, có thể 1 năm hoặc nhiều năm. Thời lượng phát sóng của mỗi chuyên mục phụ thuộc vào khung chương trình tổng thể, khả năng sản xuất, sức hấp dẫn với người xem…

          Tạp chí truyền hình

Là hình thức thông tin đa chiều về một chủ đề hoặc nhóm chủ đề. Nếu chuyên mục đi sâu vào một lĩnh vực (nội dung) thì tạp chí truyền hình lại hướng tới sự quan tâm của nhóm đối tượng tiếp nhận thông tin về một chủ đề nhất định. Ví dụ: Tạp chí Phụ nữ số 1 bàn về làm đẹp, số 2 về thời trang, số 3 về giá cả thị trường…

Phim tài liệu truyền hình

Là một thể loại  tác phẩm truyền hình, phim tài liệu chứa đựng thông tin mang giá trị khảo cứu, khái quát và những ý tưởng cảm nhận từ cuộc sống của người làm phim. Là loại tác phẩm có thời lượng dài (trên dưới 30 phút), mỗi bộ phim mang thông điệp tương đối hoàn thiện và nó có thể phát sóng độc lập.

Nếu các tác phẩm tin tức, phóng sự luôn bám sát sự kiện được sản xuất và phát sóng ngay, nếu để “nguội” sẽ không còn giá trị thì phim tài liệu lại “bền vững” hơn với thời gian. Nó có thể phát sóng nhiều lần trên truyền hình.

Giá trị khảo cứu của phim tài liệu truyền hình có thể nhận thấy trên phương diện ý nghĩa lịch sử của những sự kiện, nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội. Ví dụ, phim tài liệu về Giải phóng Miền Nam, về cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh … được phát lại vào những thời điểm khác nhau, nhưng mỗi lần xem lại người ta lại nhận ra những giá trị mới từ những thước phim cũ.

Ngoài ra, mỗi đạo diễn cũng gửi gắm ý tưởng và khái quát hiện thực qua từng bộ phim giúp người xem nhận ra những giá trị của cuộc sống.

Truyền hình trực tiếp

Truyền hình trực tiếp là cách đưa thông tin đồng thời với thời điểm sự kiện đang diễn ra. Đây là ưu thế của truyền hình trong việc thông tin hình ảnh nhanh nhất về một sự kiện công chúng đang quan tâm. Tuy nhiên, truyền hình trực tiếp sẽ phụ thuộc vào thiết bị kết nối truyền dẫn tín hiệu từ hiện trường về trung tâm phát sóng. Chi phí cho việc truyền hình trực tiếp còn cao. Tuy nhiên, khoa học kỹ thuất đang thay đổi, các thiết bị ngày càng nhỏ gọn và đơn giản do đó việc thực hiện tin tức, phóng sự trực tiếp tại hiện trường sẽ không còn xa lạ với truyền hình hiện đại.

          Cầu truyền hình

Là sự kết nối các điểm thông tin từ những khu vực khác nhau. Có thể thực hiện cầu truyền hình về một sự kiện đang được diễn ra tại nhiều nơi. Ví dụ, các hang truyền hình lớn trên thế giới tổ chức cầu truyền hình tại nhiều địa điểm đón chảo năm mới tại nhiều quốc gia. Truyền hình Việt Nam thường xuyên tổ chức cầu truyền hình Vì người nghèo vào cuối năm.

Chương trình thời sự cũng có thể tổ chức hình thức thông tin cầu truyền hình khi có nhiều trung tâm xử lý tin tức ở các khu vực.

Đặc điểm cầu truyền hình là liên kết thông tin từ nhiều địa điểm khác nhau nên đòi hỏi phải có kịch bản và người tổng đạo diễn để kết nối đảm bảo chương trình không bị gián đoạn và mắc lỗi. Cầu truyền hình có thể phát sóng trực tiếp hoặc thu băng phát sóng chậm.

Chương trình  tổng hợp

Là dạng chương trình sáng tạo về mặt hình thức đưa thông tin, linh hoạt trong kết cấu nội dung chương trình. Hiện nay có nhiều chương trình khai thác tính tương tác với khán giả để thu hút người xem. Trong chương trình tổng hợp những người sản xuất có thể kết hợp nhiều thể loại tác phẩm và nhiều hình tức thông tin khác nhau để tăng tính hấp dẫn của chương trình truyền hình. Cũng có thể  kết hợp giữa các yếu tố thông tin, giải trí, nghệ thuật trong  một chương trình dạng tổng hợp.

  1. Tác phẩm báo chí truyền hình

Là cách gọi từng sản phẩm báo chí đơn lẻ được thực hiện bởi cá nhân hoặc nhóm tác giả.

Tác phẩm báo chí truyền hình phải đảm bảo sự hoàn thiện về nội dung và hình thức, có chủ thể sáng tạo (tác giả). Ví dụ, tác phẩm phóng sự, ký sự, phim tài liệu…

Quá trình phát triển của báo chí truyền hình đã hình thành hệ thống thể loại, ở đó mối quan hệ giữa nội dung và hình thức tác phẩm đã trở thành nguyên tắc giúp những người làm truyền hình tiếp cận kỹ năng sáng tạo một cách khoa học. Ví dụ, khi làm tin tiêu chí nhanh, ngắn gọn, chính xác được đặt lên hàng đầu.

Tác phẩm báo chí truyền hình thường được sản xuất và phát sóng định kỳ trong các chương trình truyền hình. Mỗi loại chương trình có nhiều cách đưa thông tin, các tác phẩm đơn lẻ là một bộ phận kết cấu thành tổng thể nội dung thông tin.

Chương trình truyền hình

Là nội dung thông tin được tổ chức ổn định theo chu kỳ thời gian. Chương trình truyền hình là khái niệm mang tính tương đối có thể hiểu trên 2 phương diện:

Chương trình tổng thể: là toàn bộ nội dung phát sóng của một đài truyền hình, một kênh truyền hình phát sóng trong một ngày, một tuần…

Chương trình bộ phận: là các chương trình riêng được sản xuất ‘tương đối” độc lập để đưa vào khung chương trình phát sóng chung của một đài truyền hình. Ví dụ, “Chương trình thời sự”, chương trình “Chào buổi sáng”,  chương trình “Gõ cửa ngày mới”….

Tính định kỳ của các chương trình truyền hình: để đảm bảo cập nhật thông tin báo chí liên tục, các chương trình truyền hình được thiết kế và sản xuất phải đảm bảo tính định kỳ. Tính định kỳ đảm bảo dòng chảy thông tin thời sự của báo chí, cập nhật thường xuyên những vấn đề công chúng quan tâm. Tính định kỳ với truyền hình giúp khán giả định hình và ghi nhớ thời gian xem chương trình. Việc quảng cáo lịch phát sóng các chương trình truyền hình giúp người xem có thêm cơ hội lựa chọn và chờ đón thông tin. Ngày nay việc lựa chọn kênh và chương trinh yêu thích đã thành thói quen khi người xem truyền hình cầm vào chiếc điều khiển ti vi. Nhờ thiết bị kỹ thuật hiện đại, ngày nay khán giả lựa chọn và xem chương trình chủ động hơn.

  1. Đặc điểm tác phẩm báo chí truyền hình

Tác phẩm báo chí truyền hình mang những đặc điểm chung của tác phẩm báo chí, ngoài ra có thể chú ý tới một số đặc điểm:

Tính xác thực của hình ảnh: hình ảnh của tác phẩm báo chí truyền hình luôn đặt tiêu chí “sự thật” lên hàng đầu. Mỗi cảnh quay, mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện … đều có địa chỉ thật trong cuộc sống, nếu phóng viên dàn dựng cảnh quay sai sự thật bóp méo bản chất thì đó là vi phạm vào đạo đức nghề nghiệp người làm báo. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt sự khác nhau giữa tác phẩm báo chí truyền hình và tác phẩm điện ảnh. Với điện ảnh là lĩnh vực nghệ thuật, người ta có thể xây dựng hình tượng nhân vật, sáng tạo hình ảnh, cảnh quay theo ý chủ quan của đạo diễn để đạt hiệu quả nghệ thuật. Còn với tác phẩm báo chí truyền hình, hình ảnh thu được đều dựa trên chất liệu thật của sự kiện, mọi sáng tạo tác phẩm đều phải tôn trọng sự thật.

Tuy nhiên, với ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh trên truyền hình người ta cũng có nhiều cách để truyền đạt thông tin xác thực và hiệu quả. Chẳng hạn việc sử dụng hình ảnh đồ họa giúp khán giả nhận được thông tin khái quát hơn về một sự kiện nào đó. Bên cạnh đó, nếu hình ảnh là thông tin cụ thể thì lời bình sẽ giải thích rõ hơn về hình ảnh đó nó đảm bảo cho người xem hiểu rõ bản chất của sự kiện và những gì đang diễn ra trên màn hình.

Tính lô gích của thông tin: mỗi cảnh quay của tin tức, phóng sự… trên truyền hình được tính bằng giây, như vậy hình ảnh trên truyền hình không phải là tất cả sự kiện được ghi hình liên tục mà là sự ghép nối rất nhiều cảnh quay ở những thời điểm khác nhau. Do đó mỗi tác phẩm báo chí trên truyền hình phải dảm bảo sự lô gích của thông tin.

Để có sự lô gích của thông tin, tác phẩm báo chí được xây dựng trên nguyên tắc về ngôn ngữ hình ảnh, về tiếng động, về lời bình… và sự hoàn thiện của tác phẩm dựa trên các tiêu chí thể loại.

          Đảm bảo các yếu tố kỹ thuật: tác phẩm báo chí truyền hình được sản xuất theo những tiêu chuẩn kỹ thuật từ ghi hình, dựng hình, truyền dẫn phát sóng… do đó đòi hỏi các khâu phải tuân thủ kỹ thuật để tín hiệu hình ảnh đến người xem trung thực nhất.

Chương 3:

TRUYỀN ĐẠT THÔNG TIN – GIAO TIẾP TRÊN TRUYỀN HÌNH

 1.Người dẫn chương trình truyền hình

Sự khác biệt giữa báo chí truyền hình với các loại hình báo chí khác chính là khả năng truyền đạt thông tin thông qua hình thức giao tiếp đặc biệt. Mỗi chương trình truyền hình đều xác định nhóm đối tượng khán giả chính và lựa chọn người dẫn chương trình cho phù hợp.

Người dẫn chương trình truyền hình là người xuất hiện trong chương trình với tư cách là chủ thể giao tiếp, dẫn dắt, kết nối và truyền đạt thông tin tới khán giả. Người dẫn phải làm chủ không gian, lựa chọn phong cách cho phù hợp. Gương mặt “ưa nhìn”, chất giọng tốt, linh hoạt, có tri thức… là những tiêu chí đang được nhiều đài truyền hình tuyển chọn người dẫn.

Người dẫn trên truyền hình cần rèn luyện phong cách riêng và giữ phong cách “ổn định” trong giao tiếp với khán giả. Không nên một người dẫn xuất hiện trong nhiều loại chương trình  khác nhau.

Quá trình giao tiếp

Theo “Từ điển Tâm lý học” của Nguyễn Khắc Viện. Giao tiếp là quá trình truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm cho một người hay một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (tương tác). Thông tin hay thông điệp được nguồn phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên đều vận dụng một mã chung.

Theo “Tâm lý học đại cương” của Trần Thị Minh Đức (chủ biên). Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức, thông qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau Căn cứ vào tính chất của quá trình giao tiếp có thể phân loại các hình thức giao tiếp:

   – Giao tiếp trực tiếp: Là sự tiếp xúc, trao đổi giữa các chủ thể giao tiếp, được thực hiện trong cùng một khoảng không gian và thời gian nhất định.

– Giao tiếp gián tiếp: Là giao tiếp được thực hiện qua các phương tiện trung gian như điện thoại, thư tín, sách báo, tivi…Ưu điểm của giao tiếp gián tiếp là tính nhanh chóng, thuận lợi hơn so với  giao tiếp trực tiếp. Tuy vậy nó có một số hạn chế như phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, kém sinh động, kém hiệu quả hơn. Trong loại giao tiếp này, hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ không đóng vai trò quan trọng.

Quan niệm về giao tiếp trên truyền hình:

Giao tiếp trên truyền hình là dạng đặc biệt, nó hàm chứa cả yếu tố giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp.

Các yếu tố trực tiếp: nhìn thấy, nghe thấy, có thể phản ứng tức thời (cảm xúc vui, buồn, tức giận, cảm thông….)

Các yếu tố gián tiếp: khán giả tiếp nhận thông tin qua màn hình ở không gian rộng.

Quá trình truyền đạt thông tin:

Thông tin trên truyền hình đ\ược truyền đạt theo tuyến tính thời gian, người xem khó có thể “nóng lòng” xem lướt như báo viết. Do đó những người làm chương trình cần quan tâm tới tâm lý khán giả, lựa chọn thời điểm phát sóng chương trình cho phù hợp. Ví dụ, Đài truyền hình Việt Nam chọn giờ “vàng” 19 giờ để phát sóng chương trình thời sự. Đây là khoảng thời gian nhiều người có mặt ở nhà để xem truyền hình nhất. Việc phân loại thông tin theo các kênh và chọn thời điểm phát sóng chương trình phù hợp sẽ giúp cho người xem chủ động hơn trong tiếp nhận thông tin.

Sự biểu cảm của thông điệp

Sự xuất hiện của người dẫn chương trình truyền hình  là “đầu mối” đại diện cho chủ thể (những người làm chương trình) giao tiếp với công chúng. Cho dù quá trình giao tiếp này thiên theo hướng “truyền đạt” một chiều. Mỗi chương trình, phong cách người dẫn phải phù hợp với nội dung và đối tượng tiếp nhận thông tin. Người dẫn tạo cho người xem cảm xúc vui, buồn, hứng khởi. Ngay cả những tác phẩm truyền hình khi không có mặt người dẫn thì mức độ biểu cảm của thông điệp qua hình ảnh cũng rất lớn. Những chương trình truyên fhình trực tiếp Nối vòng tay lớn của VTV huy động hàng tỷ đồng giúp người nghèo là một ví dụ. Thông qua hình ảnh, sự cảm thông và chia sẻ luôn là cảm xúc thực cảu người xem.

Tính tương tác trong quá trình giao tiếp

Sự tích hợp của các loại hình truyền thông trở thành truyền thông đa phương tiện trong đó có truyền hình đang làm cho khả năng tương tác của chương trình truyền hình phát triển. Truyền hình trên mạng internet, iTV, dịch vụ mạng cáp băng thông rộng… đang làm cho cách giao tiếp truyền thống trên truyền hình có những thay đổi.

Tháng 12/1996 hãng Web TV của Mỹ đã công bố dự án đầu tư hợp tác với Fujtsu (Nhật) để cung cấp dịch vụ internet TV đầu tiên vào thị trường Nhật Bản. Khán giả Nhật có thể xem được 200 kênh truyền hình qua dịch vụ cáp băng thông rộng và vệ tinh tại nhà hoặc thu phát số mặt đất.

Singapore và Trung Quốc cũng là những quốc gia đang đẩy mạnh phát triển các dịch vụ truyền hình mở ra một giai đoạn phát triển thế hệ truyền hình tương tác mới ở Châu Á.

2.Đặc điểm giao tiếp trên truyền hình

Giao tiếp trên truyền hình là loại giao tiếp đặ biệt vì nó “kết nối” giữa giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp. Các yếu tố của giao tiếp trực tiếp: khán giả được nhìn thấy, được cảm nhận như mình tham gia vào sự kiện.

Giao tiếp trên truyền hình thông qua 2 tầng thông tin:

Tầng thông tin thứ nhất: chủ yếu là lời nói, nó có thể là lời nói của người dẫn, người trả lời phỏng vấn, người phát biểu trên truyền hình…

Tầng thông tin thứ 2: là các yếu tố biểu cảm như gương mặt, cảm xúc, cử chỉ, bối cảnh…. điều này trên báo viết và phát thanh có rất ít.

Trong quá trình truyền tải thông điệp hai tầng thông tin hỗ trợ nhau tạo hiệu quả tốt. Cũng có khi hai tầng thông tin trái ngược nhau làm cho người xem nhận được thông điệp trái ngược với lời nói.

Bối cảnh của truyền hình hỗ trợ cho thông điệp do đó từ trường quay cho tới hiện trường của sự kiện luôn được cân nhắc để có thông tin tốt.

Chuẩn giao tiếp trên truyền hình: mỗi chương trình đều xác định cho mình đối tượng người xem, tùy vào tính chất thông tin và hình thức chuyển tải để lựa chọn một chuẩn giao tiếp với khán giả.

Chuẩn giao tiếp trên truyền hình được nhìn nhận trên một số yếu tố:

Thứ nhất, người dẫn chương trình phải đáp ướng yêu cầu về hình thể, giọng nói, cách ứng xử trong quá trình dẫn chương trình và thái độ với công chúng. Về hình thức như trang phục phải đảm bảo các chuẩn về văn hóa của mỗi dân tộc.

Thứ hai, việc đưa thông tin hình ảnh trên truyền hình phải tôn trọng các tiêu chuẩn về văn hóa, tôn giáo… tránh những hình ảnh bạo lực, kích động hay những hình ảnh làm tổn thương tinh thần người xem.

  1. Đặc điểm khán giả  truyền hình:

Sự “đa dạng”: không gian phát sóng truyền hình rộng lớn tạo nên sự đa dạng khán giả, sự đa dạng này bao gồm: độ tuổi, dân tộc, giới tính, tôn giáo, sở thích, trình độ, quan điểm chính trị, ngành nghề, vùng miền….

Đặc điểm này cho thấy nhu cầu xem truyền hình rất phong phú, việc xây dựng nội dung các chương trình cần có nghiên cứu khoa học về nhu cầu của khán giả trước khi thiết kế chương trình.

Tâm lý “thường ngày”: đây là đặc điểm của khán giả khi tiếp nhận thông tin truyền hình vì truyền hình phát sóng 24/24 giờ trong ngày với nhiều kênh truyền hình khác nhau. Điều này làm cho khán giả quá quen thuộc với truyền hình, tạo ra thói quen “hờ hững” vừa xem ti vi vừa nói chuyện, uống nước…do đó, thông điệp trên truyền hình phải rõ ràng và hấp dẫn. Điều này khác với khán giả của điện ảnh, một người mua vé vào rạp xem phim họ có tâm lý đón chờ từ trước và chuẩn bị chu đáo khi đến xem phim. Thường thì khi đã vào rạp họ sẽ xem hết cả bộ phim với sự tập trung thị giác cao.

Tâm lý lây lan: một thông tin quan trọng nào đó được phát trên truyền hình thường được lan tỏa nhanh trong cộng đồng , họ thường hỏi ngay người ‘hàng xóm” có xem không, nếu có xem thì sẽ cùng bình luận, trao đổi nếu không xem thì sẽ mô tả lại thông tin. Việc lan tỏa nhanh thông tin trong cộng đồng thường tạo ra những phản ứng tức thời trong dư luận xã hội.

Chương 4:

NGÔN NGỮ TRUYỀN HÌNH

1.Sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh

Trong quá trình giao tiếp trao đổi thông tin, con người luôn tìm phương thức và lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp. Mục tiêu cuối cùng của giao tiếp là tác động từ thông điệp tới đối tượng tiếp nhận. Với báo chí: báo viết, dùng ký hiệu chữ viết và ảnh, phát thanh là âm thanh, còn truyền hình dùng ngôn ngữ tổng hợp cả hình ảnh và âm thanh nhưng yếu tố hình ảnh giữ vai trò quan trọng. Với truyền hình nếu không có hình ảnh thì không còn là truyền hình nữa.

Trong từ điển tiếng Việt (NXB Khoa học Xã hội – 1994) đã định nghĩa: “Ngôn ngữ là công cụ biểu thị ý nghĩ dùng để giao tiếp giữa người và người, thực hiện nhờ hệ thống những phương tiện âm thanh, từ ngữ và ngữ pháp”.

Trong xã hội hiện đại, khoa học phát triển làm phong phú thêm công cụ giao tiếp giữa người và người nó không chỉ đóng khung trong “ngôn ngữ” hẹp. Ngay như điện thoại ngày nay không chỉ nghe thấy tiếng nói mà còn nhìn thấy hình ảnh của người nói chuyện. Trang web Yahoo đưa ra phần mền Yahoo! Messenger  kết nối các máy tính để mọi người giao tiếp với nhau cả bằng chữ viết và hình ảnh trên webcam.

Đối với truyền hình, vói phương thức giao tiếp đặc biệt mang cả yếu tố trực tiếp và gián tiếp thì việc nghiên cứu ngôn ngữ hình ảnh trở nên quan trọng. Đối với chủ thể (những  người làm truyền hình) xây dựng thông điệp trên chất liệu hình ảnh và âm thanh cùng kỹ năng giao tiếp của người dẫn, đối với khách thể (khan giả) nhận thông điệp qua thiết bị “màn hình”.

Với đặc điểm này thông điệp hình ảnh trên truyền hình phải tuân thủ các nguyên tắc cảm nhận của thị giác (người xem) về không gian, thời gian và màu sắc. Với chiếc máy ghi hình, người quay phim có thể cho người xem nhìn thấy câu chuyện từ xa đến gần hoặc từ gần đến xa. Hơn thế nữa với sự kết hợp của nhiều máy quay phim còn cho người xem nhìn sự việc, đối tượng từ nhiều góc quay khác nhau và điều này làm nên sức hấp dẫn của truyền hình. Với nguyên tắc này, câu hình ảnh đơn giản được quay: toàn cảnh, trung cảnh, cận cảnh một chủ thể, hoặc ngược lại: từ cận cảnh rồi ra trung cảnh và toàn cảnh.

2.Quá trình xây dựng thông điệp bằng hình ảnh

.Khi xây dựng thông điệp bằng hình ảnh chú ý tới các yếu tố cấu thành thông tin. Hình ảnh luôn hướng người xem tới thông tin cụ thể: một con người xuất hiện trong tác phẩm báo chí truyền hình sẽ có tên tuổi, địa chỉ thật chứ không giống phim truyện điện ảnh chỉ là hình tượng hư cấu và không tìm thấy trong xã hội.

Không gian trong truyền hình cũng là bối cảnh thật của sự kiện, những cảnh quay trên truyền hình cần khai thác những hình ảnh biểu đạt thông tin địa chỉ cụ thể. Ví dụ, người ta nhận ra Hà Nội nếu thấy phía sau là Hổ Hoàn Kiếm Nhận ra Paris (Pháp) khi nhìn thấy tháp Effel. Người ta nhận ra các biển báo tên đường phố, cột báo địa giới, biển số xe… như vậy giữa những hình ảnh chi tiết: cận cảnh, đặc tả cần chú ý mối liên hệ với không gian rộng hơn đó là cảnh rộng (toàn cảnh).

Thế mạnh của truyền hình là trung và cận cảnh vì thông điệp hình ảnh người xem nhận được trên màn hình nhỏ (14 inch, 21 inch, 39 inch …) và như vậy nếu cảnh quay quá rộng thì người xem không nhận biết được các đối tượng trong khuôn hình.

3.Vai trò của các loại hình ảnh:

Hình ảnh động: do máy ghi hình thu lại hình ảnh từ cuộc sống chân thật, đây là yếu tố quan trọng nhất cho thông điệp trên truyền hình. Khi quay phim tại hiện trường cần tôn trọng tính chân thật của sự kiện, tránh đạo diễn theo ý chủ quan. Việc đão diễn hình ảnh tại hiện trường có thể hiểu ở góc độ:lựa chọn cảnh quay cho hợp lý để thộng tin rõ ràng sự kiện. Việc liên hệ và tổ chức ghi hình đòi hỏi phải có sự chuẩn bị trừ những sự kiện “nóng” diễn ra bất ngờ đòi hỏi phải ghi hình ngay. Nhìn chung truyền hình chỉ có được hình ảnh khi sự kiện đang diễn ra. Việc tái tạo lại hình ảnh chỉ áp dụng trong một số dạng thông tin đặc biệt , ví dụ chuyện vụ án đã xảy ra nay dựng lại để người xem dễ hình dung.

Hình ảnh tĩnh: khái niệm “tĩnh” cũng chỉ là tương đối vì thực chất chẳng có gì là đang đứng yên trên trái đất. Hình ảnh tĩnh là loại cảnh quay những đối tượng không chuyển động như: bức ảnh, bản đồ, biểu đồ… khi phát lên người xem có cảm tưởng như bức ảnh tĩnh. Truyền hình hấp dẫn người xem bằng hình ảnh động do đó việc sử dụng các cảnh tĩnh phải tính liều lượng và cách sử lý cho hiệu quả.

Hình ảnh đồ họa: hiện nay loại hình ảnh đồ họa do con người tạo ra trên máy tính đang rất phổ biến. Nó có ý nghĩa khái quát cao làm cho người xem dễ hiểu câu chuyện hơn. Sự can thiệp của máy vi tính đang hình thành cách làm truyền hình năng động và hấp dẫn hơn. Các hình hiệu, hình cắt được thể hiện thông qua đồ họa máy tính làm cho hình ảnh phong phú và khái quát.

Chữ viết: ngoài cách truyền thống đưa tên phim, những người thực hiện, người ta thường “tận dụng” diện tích màn hình để đưa thêm thông tin dạng chữ viết. Ví dụ, cho dòng chữ chạy đưa thông tin: thị trường chứng khoán, tỷ giá ngoại tệ, tin vắn …

4. Các yếu tố phối hợp, bổ sung cho hình ảnh:

Lời bình: lời bình thường giải thích cho người xem biết cái gì đang diễn ra trên màn hình, lời bình cung cấp them thông tin mà hình ảnh chưa nói được. Nếu hình ảnh là cụ thể thì lời bình thường khái quát câu chuyện hơn. Sự diễn tả bằng từ ngữ cũng là thói quen của con người khi truyền đạt thông điệp. Viết lời bình cho truyền hình cần hiểu rằng nó chỉ là một bộ phận hỗ trợ , bổ xung thông tin chứ không phải là toàn bộ thông tin như phát thanh. Do đó, lời bình có mối quan hệ chặt chẽ với hình ảnh, nó bám sát hình ảnh nhưng lại không được “miêu tả” những điều người xem đã nhìn thấy.

Hìn ảnh được rút gọn cả về không gian và thời gian diễn ra sự kiện, do đó lời bình là sợi dây kết nối câu chuyện một cách rõ ràng hơn. Lời bình còn góp phần định hướng thông tin mà mình muốn truyền đạt, bởi bản thân hình ảnh cũng cho  người xem những nhận thức nhiều chiều.

Lời nói nhân vật (phỏng vấn): Mỗi sự kiện diễn ra đều có vai trò con người trong đó, thông tin trên truyền hình không chỉ có lời bình của phóng viên mà còn những tiếng nói của người trong cuộc, người chứng kiến, người nhìn nhận đánh giá…. Nếu lời bình được phóng viên viết ra và phần nào thể hiện ý chủ quan thì những trích dẫn phỏng vấn, phát biểu tạo cho câu chuyện chân thật khách quan hơn.

Việc lựa chọn nhân vật phỏng vấn là một vấn đề quan trọng, bởi một sự kiện diễn ra mỗi người có một cách nhìn và góc độ nhận xét đánh giá. Những phỏng vấn trái chiều về một chủ đề làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn. Cách đặt câu hỏi phỏng vấn để tạo kịch tính cho câu chuyện là  “nghệ thuật” của người làm truyền hình.

Tiếng động: Là bộ phận không thể thiếu trên truyền hình, nó có vai trò làm cho hình ảnh chân thật, sinh động, nới rộng không gian và quan trọng hơn nó mang giá trị thông tin. Giá trị thông tin của tiếng động là đặc trưng của âm thanh trong đời sống con người mà mỗi khi nghe thấy người ta liên tưởng và nhận biết được sự việc. Tiếng gõ mõ tụng kinh làm người xem nhận biết không gian chùa của phật giáo, tiếng sáo H’mông liên tưởng tới vùng núi cao. Tiếng tầu hỏa làm người xem nghĩ đến ga xe lửa… còn rất nhiều âm thanh mang giá trị thông tin có khi còn nhiều hơn cả lời bình.

Âm nhạc: âm nhạc là loại hình nghệ thuật có phương thức riêng tác động đến người nghe. Việc sử dụng âm nhạc trên truyền hình như một sự hỗ trợ về môi trường tiếp nhận thông tin. Âm nhạc góp phần tạo nên tiết tấu của tác phẩm, tạo người xem cảm xúc khi tiếp nhận hình ảnh. Những nốt nhạc vui, buồn, nhanh chậm … làm người xem đồng cảm hơn với thông điệp của tác giả. Cũng có trườg hợp lạm dụng âm nhạc làm cho hình ảnh bị chi phối. Việc lựa chọn âm nhạc phải phù hợp với tính chất từng loại thông điệp.

Chương 5:

HỆ THỐNG THỂ LOẠI TÁC PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH

  1. Tiêu chí phân chia thể loại tác phẩm báo chí truyền hình

Dựa vào hệ thống thể loại tác phẩm báo chí chung và những đặc điểm  riêng của báo chí truyền hình, tác phẩm truyền hình được phân thể loại trên những tiêu chí tương đối ổn định về  nội dung và hình thức của tác phẩm.

Giá trị tác phẩm báo chí truyền hình được đánh giá dựa trên 3 yếu tố cơ bản:

1.1- Giá trị “nguyên chất” của sự kiện, vấn đề.

Đây là yếu tố quan trọng, bao trùm lên toàn bộ tác phẩm, nó là cái gốc để nhà báo có thông tin. Khi nói giá trị “nguyên chất” của sự kiện là muốn nhấn mạnh tới tính khách quan của sự kiện, nó hiện diện độc lập bên ngoài tư duy của nhà báo. Còn khi nhà báo phát hiện ra nó thì bắt đầu bộc lộ những yếu tố chủ quan của tác giả để quan sát, phán đoán, phân tích… và đánh giá tầm quan trọng của sự kiện để quyết định lựa chọn đề tài. Chính vì vậy mà cùng chứng kiến một sự kiện nhưng mỗi nhà báo có góc độ tiếp cận và đưa tin khác nhau.

Thế mạnh của truyền hình là cho khán giả nhìn thấy hình ảnh của sự kiện, đó là chất liệu thông tin nguyên chất nhất của cuộc sống. Ngày nay, phương tiện truyền thông hiện đại luôn tìm cách để có thông điệp bằng hình ảnh nhằm thuyết phục công chúng. Để có hình ảnh cho tác phẩm người ta có thể mua hình ảnh “thô” về một sự kiện nào đó từ các hãng thông tấn, còn việc đưa tin, phân tích, bình luận… thì tùy từng đài truyền hình thực hiện theo cách của mình.

Truyền hình cung cấp thông tin trong tác phẩm cũng dựa trên những câu hỏi đã trở nên quen thuộc với mọi nhà báo trên toàn thế giới: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Tại sao? Như thế nào?… với truyền hình, nếu đưa tin tức trực tiếp thì khán giản đồng thời tiếp nhận thông tin khi sự kiện đang diễn ra và những cảm nhận về tính khách quan chân thực được nhận biết qua thị giác.

Căn cứ  vào yếu tố trên thì mỗi thể loại tác phẩm báo chí truyền hình được xem xét ở những cấp độ tiếp cận khác nhau. Ví dụ, tin tức luôn lấy tiêu chí hàng đầu: mới, nhanh, khách quan, chân thực. Phóng sự cần tác giả có góc độ tiếp cận đề tài để kể những câu chuyện rõ ràng. Ký sự truyền hình xuất hiện nhiều yếu tố cảm xúc, cảm nhận của tác giả trước hiện thực cuộc sống. Còn bình luận truyền hình lại bao hàm ý chí chủ quan của người bình luận về một sự kiện, vấn đề nào đó…v.v.

1.2- Cách xử lý thông tin và truyền đạt thông điệp.

Một tác phẩm báo chí truyền hình được chuyển tải qua nội dung và hình thức thể hiện. hình thức như cái “vỏ” bao bọc nội dung để gửi tới công chúng. Tùy vào mục đích thông tin mà những người làm truyền hình lựa chọn cách xử lý và truyền đạt khác nhau.

Mỗi phóng viên, biên tập viên trên truyền hình có thể tạo dựng những phong cách tác tác phẩm khác nhau, thậm chí họ xuất hiện trong tác phẩm với hình dáng, giọng điệu, cử chỉ, cảm xúc riêng.

Hệ thống thể loại tác phẩm báo chí truyền hình giúp cho các phóng viên dựa vào “khuôn mẫu” để đưa thông tin hiệu quả. Mỗi thể loại đều có cách tiếp cận nguồn tin, khai thác tư liệu, xử lý nội dung và truyền đạt thông điệp đảm bảo dòng chảy thông tin thời sự liên tục trên truyền hình.

1.3- Những giá trị gia tăng

Giá trị gia tăng của tin tức được hiểu là những giá trị mà khán giả nhận được nhờ tri thức, kỹ năng của nhà báo. Nó thể hiện ở những phân tích, nhận định, bình luận… những giá trị này làm nên uy tín của nhà báo. Qua hàng loạt tác phẩm truyền hình của một tác giả công chúng có thể đánh giả uy tín và khả năng cá nhân của họ.

Thông qua các tác phẩm báo chí công chúng nhận ra tính hệ thống của vấn đề, những quy luật của cuộc sống và định hướng hành động trước các hiện tượng xã hội. Mỗi nhà báo với tư cách cá nhân cần tích lũy vốn sống, kinh nghiệm và tri thức để bổ sung thêm giá trị gia tăng cho mỗi tác phẩm của mình.

Như vậy, bản thân thể loại tác phẩm báo chí truyền hình không làm nên giá trị của sự kiện, nó chỉ như một “công thức” để nhà báo sử dụng đưa thông tin đạt hiệu quả. Trước mỗi sự kiện, vấn đề việc quyết định dùng thể loại nào là quyền của nhà báo còn khán giả  ít người biết định nghĩa tin hay phóng sự, họ có những tiêu chí thẩm định và cảm nhận riêng.

  1. Hệ thống thể loại tác phẩm

2.1- Tin truyền hình:

Là thể loại quan trọng giúp thông tin liên tục những sự kiện, vấn đề mang tính thời sự trong mỗi bản tin truyền hình. Mục tiêu của tin là phát hiện sự kiện vấn đề mới, đưa tin nhanh. Truyền hình cho phép phóng viên đưa tin trực tiếp khi sự kiện đang xảy ra. Ngày nay với sự tích hợp của truyền thông đa phương tiện, khả năng truyền tin tức trực tiếp ngày càng đơn giản với những thiết bị cá nhân và truyền qua đường internet, điện thoại…

Do đặc điểm phải đưa tin nhanh do đó tin truyền hình cũng cần ngắn gọn về thời lượng, xúc tích về hình ảnh, khách quan về lời bình. Trong lý thuyết truyền thông người ta thường nói: tin dùng ngôn ngữ sự kiện.

Với sự chứng kiến, quan sát của phóng viên tại thời điểm sự kiện đang diễn ra, hình ảnh thu được là những “lát cắt” để người xem nhận biết được sự kiện. mỗi cảnh quay trong tin mang giá trị thông tin cụ thể về sự kiện trong một thời điểm. Tổng hợp các cảnh quay trong tin với một tiết tấu nhanh người xem thường nhận biết được không gian của sự kiện. Và lời bình là yếu tố cung cấp thêm những thông tin khái quát, tổng hợp mà hình ảnh chưa cung cấp.

 

Một số lưu ý khi làm tin truyền hình:

– Phóng viên phải có mặt đúng thời điểm khi sự kiện diễn ra để ghi được hình ảnh. Mọi sự chậm trễ làm thiếu những cảnh quan trọng đều giảm giá trị tin tức.

– Hình ảnh càng gần “tâm” sự kiện càng có giá trị.

– Tránh dùng hình ảnh nhạy cảm có thể gây sốc cho người xem, ví dụ: đặc tả cảnh thương tâm tai nạn giao thông, hình ảnh bạo lực, sex..

– Lời bình hạn chế dùng những từ ngữ cảm tính, bình luận chủ quan hoặc những “phán quyết” “chỉ bảo”…

– Tìm thêm giá trị gia tăng cho tin tức.

– Người dẫn bản tin sẽ làm cho tin tức sống động và hấp dẫn hơn.

– Người xem nhận ra tính chuyên nghiệp trong sản xuất tin tức trên truyền hình thông qua không gian giao tiếp của bản tin.

– Tin tức trên truyền hình là liên tục, phóng viên nên bám sát sự kiện và cập nhật trong mỗi bản tin.

Một số dạng tin trên truyền hình:

Tùy vào mục đích, người ta chọn tiêu chí để phân biệt một số dạng tin trên truyền hình.

Dựa vào hình thức của tin:

Tin hình: là tin có hình ảnh của sự kiện

Tin lời: là tin không có hình ảnh sự kiện, người dẫn đọc nội dung tin.

Tin điện thoại: khán giả nghe được giọng của phóng viên gọi điện về từ hiện trường.

Dựa vào thời lượng của tin:

Tin vắn: thời lượng ngắn, thường nội dung chỉ trả lời 1, 2… câu hỏi : cái gì? ở đâu…

Tin ngắn: với thời lượng vài chục giây, người xem nhận biết được điều gì đang xảy ra, nó không cung cấp nhiều thông tin vì thời lượng có hạn.

Tin sâu: Thời lượng thường dài hơn, người xem được biết thêm nhiều chi tiết của sự kiện thông qua hình ảnh và lời bình.

Dựa vào mảng nội dung thông tin:

Tin văn hóa, xã hội

Tin thể thao

Tin nông nghiệp

Tin an ninh – quốc phòng

Tin hội nghị

2.2 Phóng sự truyền hình

Là một thể loại tác phẩm quan trọng trên truyền hình, nó có sự phát triển, giao thoa và định hình dần theo xu hướng của báo chí hiện đại.

Phóng sự  hình thành dựa trên nền tảng của tin tức thời sự, nếu như tin giống như  thông báo ngắn gọn, thì phóng sự bắt đầu kể những câu chuyện làm sáng tỏ một vấn đề nào đó. Khán giả có thể nhận thấy những cách kể chuyện khác nhau, phong cách làm phóng sự truyền hình có thể phong phú bộc lộ ở kết cấu, tiết tấu, giọng điệu…

Về cơ bản, phóng sự truyền hình là thể loại mà phóng viên bám theo dòng thời sự để phản ánh những điều “nhìn thấy” trong cuộc sống hôm nay. Tính thời sự hiện rõ trong những đề tài làm phóng sự truyền hình. Việc sản xuất các phóng sự cũng bám theo dòng sự kiện của thông tin trên báo chí. Tuy nhiên, với tư cách là một thể loại, phóng sự trên tuyền hình cũng được sử dụng để chuyển tải nhiều nội dung ở các lĩnh vực kác nhau như khoa học, giáo dục, văn hóa. Dạng phóng sự này thường xuất hiện trong các chuyên đề sâu với thời lượng dài hơn và cũng không bị áp lực nhiều bởi tính thời sự.

Các yếu tố cấu thành thông tin trong phóng sự truyền hình:

Hình ảnh: máy quay ghi lại những hình ảnh, chi tiết sống động của câu chuyện  đang diễn ra theo lô gích không gian và thời gian đảm bảo tính chân thực và liên tục của hình ảnh. Phóng sự truyền hình luôn ưu tiên những hình ảnh của sự kiện đang diễn ra, đó là những cụm cảnh chủ lực làm nổi bật chủ đề câu chuyện. Tuy nhiên, phóng sự cũng hướng tới sự rõ ràng của sự kiện, vấn đề nên cần tìm hiểu quá trình phát triển của sự kiện.

Phóng sự có thể dùng các thủ pháp dựng hình khác nhau nhằm đạt hiệu quả thông tin bằng hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh tư liệu trong phóng sự truyền hình cần được giải thích rõ, tránh tình trạng lạm dụng.

Ngày nay nhờ có đồ họa 3D, phóng viên có thể khai thác để bổ sung những hình ảnh mang tính khái quát cho câu chuyện.

Tiếng động: là những âm thanh thật trong cuộc sống được máy ghi hình thu đồng bộ với hình ảnh tại hiện trường. Tiếng động có vai trò làm cho hình ảnh chân thực, nó mang giá trị thông tin. Tuy nhiên có lúc tiếng động trở thanh tạp âm làm ảnh hưởng tới chất lượng của tác phẩm.

Lời bình: Là yếu tố song hành cùng hình ảnh, nó như lời kể chuyện của phóng viên, lời kể ấy phải bám sát hình ảnh nhằm giải thích cho người xem hiểu chuyện gì đang diễn ra trên màn hình. Nó cung cấp thêm thông tin khái quát mà hình ảnh chưa nói lên được. Lời bình hình thành từ những ý tưởng đề tài đến khi các cụm hình ảnh của phóng sự đã được dựng thì tác giả quyết định viết lời bình theo kết cấu hình ảnh đó. Mỗi đoạn lời bình viết ra dựa trên cụm hình ảnh tương xứng, về thời lượng cứ mỗi giây hình ảnh thường tương ứng vứi 3 từ. Lời bình thường được phóng viên trực tiếp đọc cho phóng sự và cũng có thể mời người khác đọc. giọng đọc phóng sự góp phần tạo nên phong cách, tiết tấu của tác phẩm.

Lời phỏng vấn: là lời nói các  nhân vật được phỏng vấn và trích dẫn trong phóng sự, nó làm tăng tính khách quan của câu chuyện, tạo ra những góc nhìn phong phú. Tùy vào mong muốn của phóng viên mà các nhân vật xuất hiện với các góc độ, cỡ cảnh và thời lượng khác nhau. Trích dẫn các phỏng vấn thực chất như một bộ phận tiếp nối của lời bình để cung cấp thông tin cho khán giả.

Phóng viên phải biết mình cần nhân vật nói gì để có câu hỏi phù hợp, tránh tình trạng cứ hỏi rồi về tính sau. Nhiều trường hợp ghi hình phỏng vấn quá dài về nhà tìm đoạn trích dẫn rất vất vả.

Âm nhạc: việc dùng âm nhạc trong phóng sự là vấn đề cần tính toán kỹ, âm nhạc tạo tiết tấu và tác động vào cảm xúc của khán giả nhưng nếu sử dụng không đúng lại làm giảm giá trị câu chuyện trong phóng sự. Với những vấn đề thời sự không nên lạm dụng âm nhạc.

2.3 Phỏng vấn truyền hình

2.3.1 Quan niệm về phỏng vấn truyền hình

Phỏng vấn truyền hình là quá trình hỏi – đáp, trao đổi, trò truyện trên truyền hình mà ở đó phóng viên là người làm chủ giao tiếp nhằm khai thác thông tin từ người trả lời.

Cần phân biệt: phỏng vấn với tư cách là hoạt động của nhà báo và phỏng vấn với tư cách là một thể loại tác phẩm báo chí.

Nhà báo khi hoạt động khai thác tư liệu thường dùng nhiều phương pháp trong đó có phỏng vấn. Những phỏng vấn này mục đích để lấy thông tin, cũng có trường hợp được trích dẫn đưa vào những câu chuyện nhưng về tổng thể đó không được gọi là tác phẩm phỏng vấn truyền hình.

Phỏng vấn truyền hình với tư cách là thể loại khi phóng viên chủ đích phỏng vấn nhân vật với hệ thống câu hỏi đủ để khán giả hiểu biết sâu về một chủ đề nào đó và quá trình đó được sử dụng phát sóng trên truyền hình.

2.3.2 Lựa chọn nhân vật phỏng vấn

Đây là vấn đề quyết định tới tính hấp dẫn, độ tin cậy của thông tin cung cấp cho khán giả. Tùy từng chủ đề để quyết định lựa chọn nhân vật cho phù hợp.

Những nhân vật có ảnh hưởng nhiều trên truyền thông:

Nhà chính trị: liên quan đến những đường lối, chính sách quyết định của chính phủ, bộ, ngành… ảnh hưởng tới đời sống nhiều người. Những nhân vật thuộc ngành công an, tòa án, kiểm sát, tài chính… thường có nhiều thông tin công chúng quan tâm.

Nhà khoa học: các phát minh, công nghệ mới, những khám phá cuộc sống.

Giới văn nghệ sỹ: cuộc sống của họ và những quan điểm, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa xã hội.

Ngoài ra, mỗi công dân có quyền bình đẳng trong phỏng vấn trên trền hình, tùy lĩnh vực vấn đề mà họ có thể tham gia.

2.3.3 Vai trò của phóng viên

Phóng viên là người “thiết kế” và tổ chức cuộc phỏng vấn: chọn chủ đề, liên hệ nhân vật, bố trí thời gian – không gian cho cuộc phỏng vấn.

Chủ động trong quá trình dẫn dắt nêu câu hỏi, phóng viên tạo phong cách riêng của mình thông qua giao tiếp với nhân vật.

Công tác chuẩn bị:

Tìm hiểu nghiên cứu nội dung chủ đề phỏng vấn, tìm hiểu nhân vật sẽ phỏng vấn, chuẩn bị ê kíp, thiết bị cho cuộc phỏng vấn.

Chuẩn bị hệ thống câu hỏi:

Những câu hỏi thên chốt phải được chuẩn bị trước để đảm bảo cuộc phỏng vấn đúng hướng chủ đề.

          Một số dạng câu hỏi trong phỏng vấn:

Câu hỏi đóng:  người trả lời thường chỉ có sự lựa chọn: có hoặc không, đứng hoặc sai… ví dụ: anh có đồng ý triển khai dự án này không? Có đúng chị không hề biết cảnh “nóng” của mình bị tung lên mạng?

Câu hỏi mở:  là dạng câu hỏi tạo cơ hội trả lời theo nhiều hướng khác nhau. Nó thường được sử dụng khi bắt đầu cuộc phỏng vấn để người trả lời dễ tham gia. Ví dụ: Ông nghĩ thế nào về tình trạng rác thải ở Hà Nội hiện nay?

Câu hỏi dẫn dắt: dạng câu hỏi giúp người trả lời hiểu và đi vào chủ đề.

Câu hỏi kiểm tra: nhằm kiểm tra lại thông tin mà nhân vật đã nói.

2.4 Ký sự truyền hình

2.4.1 Quan niệm về thể loại

Là thể loại tác phẩm truyền hình mà tác giả chuyển tải thông điệp theo xu hướng giàu cảm xúc. Những hình ảnh và âm thanh trong tác phẩm “lắng đọng” những cảm nhận cá nhân về hiện thực cuộc sống. Yếu tố “cảm nhận” đó được bộc lộ trong quá trình kể chuyện thông qua góc nhìn, lựa chọn chi tiết, giọng đọc… người xem cũng nhận ra tình cảm của tác giả qua tác phẩm.

Một loạt ký sự dài kỳ phát trên truyền hình TP HM đã được công chúng quan tâm như: Mê kong ký sự, Ký sự Amazon, Huyền bí sông Hằng, Trở lại Volga…

2.4.2 Đặc điểm ký sự truyền hình

Là thể loại tác phẩm giàu cảm xúc: ngay từ lựa chọn mảng đề tài để thể hiện đã cho thấy thế mạnh khám phá, tìm hiểu và kể chuyện mang tới cảm xúc cho khán giả. Chẳng hạn, khám phá những vùng đất mới, những con sông, những dãy núi, những con đường, những tuyến tàu hỏa…v.v.

Với ký sự truyền hình, tác giả đi và cảm nhận để có tác phẩm mang hơi thở và cảm xúc truyền cho khán giả. Việc cảm nhận hiện thực phụ thuộc vào yếu tố chủ quan từ mỗi tác giả. Đó là quan niệm về cuộc sông, kinh nghiệm bản thân, ảnh hưởng của văn hóa, phong tục… nó tác động đến góc nhìn

Liên kết chủ đề qua nhiều tập phim: với ký sự, tác giả bám theo chủ để xuyên suốt qua nhiều tập phim, mỗi tập phim mang đến cho khán giả một góc độ tiếp cận. Tất nhiên vẫn có nhiều đề tài chỉ sản xuất một tác phẩm nhưng ký sự cho phép tác giả nghĩ tới những mảng đề tài lớn hơn để sản xuất nhiều tập phim.

Đề tài tác phẩm ký sự ít bị chi phối bởi tính thời sự: nếu phóng sự truyền hình luôn bám dòng  thời sự trên báo chí  thì ký sự ít bị chi phối hơn. Điều này giúp cho các đài truyển hình chủ động về đề tài và kịch bản để sản xuất ký sự. Nó cũng giúp các đài có thể trao đổi, mua bán tác phẩm để phát sáng. Tuy nhiên cả phóng sự và ký sự truyền hình vẫn luôn bám sát cuộc sống và phản ánh chân thật dưới góc nhìn báo chí.

2.5 Phim tài liệu

2.5.1 Quan niệm về thể loại

Phim tài liệu là  thể loại tác phẩm phản ánh cuộc sống có chọn lựa, hình ảnh trong phim mang lại những giá trị khảo cứu cho khán giả. Phim tài liệu được xây dựng trên chất liệu thật của cuộc sống, tác giả mang đến người xem những giá trị của sự kiện và tính bao quát của câu chuyện.

Phim tài liệu luôn bao hàm yếu tố khách quan, những giá trị thời cuộc, thời điểm, ý nghĩa…và yếu tố chủ quan của tác giả. Nhờ những yếu tố đó phim tài liệu có giá trị bền vững, được lưu giữ để có thể phát sóng nhiều lần.

2..5.2 Đặc điểm phim tài liệu

Phim tài liệu lưu giữ được những hình ảnh, sự kiện giúp con người có thể  xem và nghiên cứu ở những thời điểm khác nhau. Phim tài liệu có giá trị “bền vững” hơn các thể loại tác phẩm khác. Người ta có thể phát sóng nhiều lần một phim tài liệu ở những thời điểm khác nhau, trong khi đó phóng sự thường không như vậy.

Phim tài liệu hàm chứa chứa cả yếu tố khách quan của sự kiện và yếu tố chủ quan của tác giả. Yếu tố khách quan là hình ảnh thật hiện hữu ở thời điểm ghi hình, nó là dữ liệu quan trọng để tác giả tập hợp xây dựng thành bộ phim. Với cùng một dữ liệu mỗi đạo diễn có cách kết cấu và thể hiện khác nhau.

Mỗi tác giả luôn cố gắng để thể hiện tính khách quan của hình ảnh và nhân vật trong phim tài liệu, tuy nhiên chủ đề, kết cấu câu chuyện đã bộc lộ yếu tố chủ quan của tác giả. Thông qua  phim bộ người xem nhận ra những giá trị và cảm nhận được góc nhìn của tác giả. Ví dụ, phim tài liệu “Bí mật của vũ khí” (The secret of the weapons) của đạo diễn Isabelle Clarke (France 3 – Pháp) sản xuất năm 1997 đã sử dụng những hình ảnh tư liệu về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Đó là hình ảnh tàn phá ghê gớm của các loại vũ khí hiện đại, nó hủy diệt một đất nước trong nhiều năm, nó cũng lý giải tại sao những vũ khí tối tân đó không thắng nổi những người Việt Nam trên chiến trường khốc liệt.

Phim tài liệu thường được xây dựng dưới góc nhìn khái quát, nó thể hiện ở việc tác giả luôn nghiên cứu kỹ các tài kiệu, tập hợp dữ liệu hình ảnh phong phú, phỏng vấn nhân vật với những góc nhìn khác nhau về sự kiện. Phim tài liệu không chỉ phản ánh hiện thực mà còn giúp khán giả tự khám phá, lý giải câu chuyện.

2.6 Bình luận truyền hình

Bình luận truyền hình là thể loại tác phẩm hình thành khi nhà báo muốn đưa ra quan điểm cuả mình về một vấn đề nào đó. Nó bộc lộ ý kiến chủ quan của tác giả dựa trên quan điểm cá nhân và góc độ của cơ quan báo chí.

Yếu tố chủ quan trong tác phẩm bình luận đòi hỏi nhà báo cần có uy tín khi đưa ra bình luận cũng như những phân tích, đánh giá. Đây là thể loại tác phẩm có tính định hướng cao so với nhiều thể loại tác phẩm khác.

Nhà báo là bình luận viên xuất hiện trên truyền hình trực tiếp bình luận một vấn đề nào đó, lúc này phong cách của họ được khán giả cảm nhận thông qua cách diễn đạt, ngôn ngữ, giọng nói, cử chỉ….

Ngoài ra cũng có thể sử dụng những hình ảnh ấn tượng của sự kiện, những hình ảnh đối lập để bình luận dẫn dắt khán giả.

Bình luận truyền hình cũng là thể loại khó, đòi hỏi nhà báo phải có bản lĩnh, biết cách truyền đạt để thuyết phục người xem. Các đài truyền hình nếu biết khai thác thế mạnh của bình luận sẽ tạo nên sức mạnh trong định hướng dư luận về các vấn đề lớn trong xã hội.

2.7 Tọa đàm trên truyền hình

Tọa đàm trên truyền hình là hình thức trao đổi, cọ xát những ý kiến cá nhân về một chủ đề mà công chúng đang quan tâm. Việc tổ chức tọa đàm do phóng viên chủ động chọn đề tài, khách mời, không gian và thời gian.

Đề tài tọa đàm có thể là những vấn đề đang còn tranh cãi trong dư luận. nó có thể là vấn đề mang tính thời sự, cũng có thể là những vấn đề xã hội đang ảnh hưởng tới nhiều người…

Khách mời dự tọa đàm có thể với vai trò cá nhân hoặc đại diện cho một cơ quan, tổ chức… việc tham gia tọa đàm cần được báo trước để họ có thời gian chuẩn bị chủ để thảo luận.

Phóng viên lên kế hoạch sản xuất cần có kịch bản để thống nhất ê kíp, phóng viên cũng có thể là người dẫn tọa đàm hoặc giao cho một người dẫn. Với vai trò dẫn dắt, kết nối thì người dẫn phải nắm chắc chủ đề, chủ động trong giao tiếp với khách mời và tạo nên “kịch tính” trong cọ xát các quan điểm trái ngược.

Trong tọa đàm, người dẫn vừa có vai trò làm chủ chương trình vừa có vai trò cùng tham gia với ý kiến của mình. Việc dẫn dắt buổi tọa đàm giúp định hướng cho các ý kiến hướng tới làm sáng tổ chủ đề. Việc chọn khách mời quyết định tới chất lượng của buổi tọa đàm. Một chủ đề sâu cần có các chuyên gia trong lĩnh vực đó tham gia để đảm bảo độ tin cậy của thông tin.

Trong quá trình diễn ra buổi tọa đàm phóng viên có thể quay trước một số phóng sự về vấn đề trao đổi để phát trong chương trình làm điểm nhấn cho quá trình thảo luận.

Tọa đàm trên truyền hình cần có thời lượng phát sóng phù hợp để đảm báo các ý kiến có sự cọ xát, cũng tránh kiểu chuẩn bị trước một chiều, thiếu hấp dẫn khán giả.

Chia sẻ:

Thích bài này:

Thích

Đang tải…