【HAVIP】Tranh chấp kinh doanh thương mại là gì? | Luật Havip

Tranh chấp trong thương mại diễn ra phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Đôi khi vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng và mâu thuẫn dẫn đến các tranh chấp trong việc thực hiện các cam kết.

 

 

1. Tranh chấp kinh doanh thương mại là gì?

 

Tranh chấp kinh doanh thương mại được hiểu  những mâu thuẫn, bất đồng xảy ra giữa các chủ thể tham gia quan hệ kinh doanh thương mại trong quá trình hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích đạt được lợi ích kinh tế cho các bên.

Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”

 

2. Đặc điểm tranh chấp thương mại

 

Thứ nhất, chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân

Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách…công ty; …

Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật

Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. 

Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức : thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. 

 

3. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại

 

Có 3 phương thức cơ bản giải quyết tranh chấp kinh doanh là Thương lượng, Hòa giải; Giải quyết tranh chấp thông quá tố tụng tại Tòa Án; Giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại (hoặc Trọng tài quốc tế gọi tắt chung là Trọng tài).

 

a. Thương lượng

 

Là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng phương thức này. Nhà nước khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên.

 

b. Hòa giải

 

Là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp.

Hình thức giải quyết này có nhiều ưu điểm: hủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Họ không bị gò bó về mặt thời gian như trong thủ tục tố tụng tại tòa án. Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Hòa giải là mong muốn của các bên dàn xếp vụ việc sao cho không có bên nào bị thua cuộc, không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại tòa án.

Hình thức giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính … ). Vì rằng, các bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc tìm kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp. Nhưng trong thực tiễn kiện tụng tại tòa thì các bên không có quyền lựa chọn cán bộ giải quyết trừ một số trường hợp phải thay đổi hội đồng xét xử theo quy định của pháp luật. Một điều quan trọng khác mà các nhà kinh doanh cũng rất quan tâm là khi giải quyết bằng con đường này các bên kiểm soát được các tài liệu chứng cứ có liên quan (những bí mật kinh doanh) trong khi giải quyết tại tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.

Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định: Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay của tòa án. Thủ tục này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.

 

c. Trọng tài

 

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Đó là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuản tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành.

Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi. Theo nguyên tắc này họ có thể giữ được bí quyết kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào.

Nhược điểm: Giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao. Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án.

 

d. Tòa án

 

Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định, ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông qua tòa án là: Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.

Tuy nhiên, việc lựa chọn phương thức này cũng có những nhược điểm nhất định vì thủ tục tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó. Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những bí mật kinh doanh bị tiết lộ.

Chính vì những nhược điểm này mà hình thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án ít khi được các thương nhân lựa chọn và các thương nhân thường xem đây là phương thức lựa chọn cuối cùng của mình khi các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài không mang lại hiệu quả.

 

4. Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án

 

Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và toàn diện, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay luôn là yêu cầu cấp bách mà nhà nước ta cần phải thực hiện. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế với nhiều quy định qua thực tiễn áp dụng đã bộc lộ các tồn tại, bất cập cần được giải thích, sửa đổi, bổ sung. Qua công tác giải quyết án tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, chúng tôi xin nêu một số vướng mắc cần tháo gỡ, cũng như kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại để bạn đọc cùng tham khảo, trao đổi như sau:

 

a. Vướng mắc khi áp dụng khoản 3 Điều 306 Luật thương mại

 

Luật thương mại năm 2005 ra đời có khá nhiều điểm mới, tiến bộ so với Luật thương mại năm 1997. Song bên cạnh đó cũng còn một số điểm bất cập cần đặt ra xem xét. Tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại quy định “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Tuy nhiên, các hoạt động nhằm nhằm mục đích sinh lợi khác là những hoạt động cụ thể nào cho đến nay chưa có văn bản giải thích. Như vậy, các tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, tín dụng, bảo hiểm có được xem là những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác và có phải là đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại không? Cũng tại khoản 3 Điều 3 quy định “Thói quen trong hoạt động thương mại” cũng gây những vấn đề tranh cãi trong công tác xét xử. Xác định “quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại”. Để xác định sự việc có phải là thói quen nhiều lần thì căn cứ bao nhiêu lần là nhiều lần và trong thời gian bao lâu để xác định là trong một thời gian dài, cũng như việc đã mặc nhiên thừa nhận của các bên rất khó để được công nhận là thói quen trong hoạt động thương mại.

Ngoài ra, tại Điều 306 Luật thương mại quy định về quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán quy định “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp  đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Việc xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường cần phải căn cứ trên cơ sở nào thì hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Có quan điểm cho rằng lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tính theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm thanh toán. Nhưng quan điểm thứ 2 lại cho rằng phải tính theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của ba ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, Agribank đang hoạt động trên địa bàn xảy ra tranh chấp (ít nhất là trong phạm vi một quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

Từ những vấn đề vướng mắc về quy định tại khoản 1 và 3 Điều 3, Điều 306 Luật thương mại chúng tôi kiến nghị TAND tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề vướng mắc trên.

 

b. Vướng mắc trong các quy định về xác định thời hiệu khởi kiện vụ án

 

Về thời hiệu khởi kiện, từ vướng mắc về thời hạn khiếu nại như đã nêu tại mục 2.2.2 Chương II, trong một số trường hợp, pháp luật quy định thời hạn khiếu nại về mặt nào đó có ý nghĩa như thời hiệu khởi kiện mà khi vi phạm, chủ thể sẽ mất các quyền theo quy định của luật. Do đó, đối với các quy định về thời hiệu cần phải quy định rõ ràng trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể phải thực hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình khi bị xâm phạm. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại được xác định theo thứ tự: Luật chuyên ngành; Luật thương mại. Như vậy, trước hết phải xác định theo luật chuyên ngành của từng lĩnh vực. Trường hợp không có luật chuyên ngành thì áp dụng thời hiệu theo quy định của Luật thương mại 2005. Theo đó “Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Riêng những tranh chấp thương mại phát sinh từ dịch vụ Logictics thì thời hiệu khởi kiện là 09 tháng kể từ ngày giao hàng”. Theo quy định của Luật thương mại thì cách xác định thời hiệu khởi kiện đối với các loại tranh chấp  thương mại có nguyên tắc cơ bản giống với BLDS 2005. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy hầu như thời hiệu khởi kiện quy định trên không được áp dụng mà chủ yếu áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định trong các luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động thương mại trong các lĩnh vực cụ thể, như trường hợp yêu cầu hủy quyết định của Đại hội cổ đông được xác định tại Điều 107 của Luật doanh nghiệp; về Hợp đồng bảo hiểm thì tùy từng loại hợp đồng, thời hiệu được xác định theo Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật thương mại, Luật dân sự 2005 và một số trường hợp khác như trong lĩnh vực hoạt động hàng hải, về hợp đồng vận chuyển hàng không …dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong việc xác định thời hiệu giữa các tòa án, giữa các Thẩm phán chưa mang tính thống nhất.

 

c. Về thời hạn giải quyết vụ án

 

Theo Điều 179 BLTDS quy định:

 “1.Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:

  1. a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

  2. b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

….

  1. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng”.

Với quy định trên của BLTTDS thì thời hạn giải quyết vụ án kinh doanh thương mại quá ngắn. Nếu trong một vụ án kinh doanh thương mại đương sự không hợp tác, không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập… Ngoài  lý do không nhận được văn bản triệu tập, rất nhiều trường hợp đương sự không còn ở địa phương hoặc đương sự cố tình lẩn tránh không hợp tác; đương sự ở nước ngoài thì cần phải làm thủ tục ủy thác tư pháp, thu thập thêm chứng cứ;  hiểu biết nhiều về pháp luật hạn chế khi tham gia ký kết các hợp đồng nên khi xảy ra tranh chấp không tự cung cấp được chứng cứ, phải yêu cầu Tòa án thu thập từ các cơ quan, tổ chức khác. Tính phức tạp trong mội dung tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết án bị kéo dài, quá hạn luật định, gây không ít khó khăn cho Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án.

 

d. Vướng mắc trong các quy định về tranh chấp trong nội bộ công ty theo khoản 3 Điều 29 BLTTDS

 

Trong thời gian qua, thực tiễn xét xử các loại án về tranh chấp trong nội bộ công ty ngày càng nhiều và phức tạp. Nhưng quá trình giải quyết án đã gặp phải vướng mắc các tranh  chấp kinh doanh thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự.

  1. Tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty”.

Với quy định tại khoản 3 Điều 29 thì việc xác định tranh chấp công ty phải thỏa mãn 2 điều kiện: thứ 1 các tranh chấp phải là công ty hoặc thành viên công ty; thứ 2 các tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách chuyển đổi hình thức tổ chức công ty.

Do đó, trước hết cần tìm hiểu khái niệm thế nào là công ty  và thành viên công ty. Theo từ điển luật học khái niệm công ty được hiểu là “sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó”. Còn đối với khái niệm thành viên công ty thì nếu căn cứ theo quy định của Luật doanh nghiệp về thành viên công ty thì không có một khái niệm cụ thể. Tại điều 4 Luật doanh nghiệp có nêu ra một số khái niệm về cổ đông, thành viên hợp danh v. v. Trong thực tiễn giải quyết các vụ án có những trường hợp tuy có liên quan đến hoạt động của công ty, mang bản chất của nội bộ công ty nhưng không phải là tranh chấp thuộc khoản 3 Điều 29 Bộ luật TTDS do không phải là thành viên công ty. Ví dụ như tranh chấp giữa thành viên công ty với người quản lý công ty được thuê làm Tổng giám đốc.

Ngoài ra, với quy định những tranh chấp này phải phát sinh từ việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách chuyển đổi hình thức tổ chức công ty. Nhưng hiểu như thế nào là hoạt động của công ty thì chưa có sự hướng dẫn cụ thể.

Với quy định cụm từ “liên quan đến việc thành lập, hoạt động…” nội hàm nghĩa rất rộng, gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giữa án kinh doanh thương mại với các loại án khác. Cụ thể, tranh chấp trong việc chi trả lương cho giám đốc có phải là hoạt động của công ty. Có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp trong quá trình hoạt động của công ty. Vì chi trả lương thuộc hoạt động của công ty, giám đốc là thành viên công ty nên thỏa mãn điều kiện được quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Tuy nhiên, quan điểm thứ 2 cho rằng mặc dù việc chi trả lương thuộc hoạt động của công ty nhưng hoạt động này chịu sự điều chỉnh của Luật lao động. Khi tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chuyên ngành nào thì nên để sự điểu chỉnh của luật chuyên ngành đó. Do đó, yêu cầu không thuộc thẩm quyền giải quyết của khoản 3 Điều 29.

Như vậy, xuất phát từ việc không có văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động của công ty trong khi thẩm quyền giải quyết theo phương pháp liệt kê của tiểu mục 3.5 Mục 3 Phần I nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã không bao quát hết những hoạt động rộng lớn của công ty gây khó khăn trong công tác thực tiễn áp dụng pháp luật. 

 

e. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng giải quyết án

 

– Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh kịp thời Luật và các văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp; sớm ban hành quy định và các hướng dẫn thực hiện pháp luật để những người làm công tác pháp luật không bị lúng túng, vướng mắc làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng giải quyết án.

– Tăng cường công tác đào tạo cán bộ giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại:

Trong quá trình giải quyết án, Thẩm phán cũng còn một số tồn tại như chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ nên không thu thập đầy đủ chứng cứ; kiến thức pháp luật chưa vững, áp dụng pháp luật không chính xác dẫn đến đường lối xử lý không đúng; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng. Ngoài ra, nhiều trường hợp xem xét vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự;  xác định lỗi và áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng không đúng quy định.

Với số lượng vụ án kinh doanh, thương mại ngày càng gia tăng và tính chất vụ án ngày càng phức tạp như hiện nay, ngoài việc mỗi cán bộ cần phải tự học trao dồi kiến thức thì việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là nhiệm vụ cấp bách và cần thiết; bên cạnh đó cần tổ chức nhiều hội nghị  cũng như mở rộng đối tượng tập huấn; tổ chức hội thảo chuyên đề pháp luật hàng quý hoặc năm, qua đó rút kinh nghiệm thực tiễn để tổng kết lý luận đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh hoặc hướng dẫn áp dụng pháp luật đáp ứng yêu cầu giải quyết án.

– Nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử án của Toà án, trong đó chú trọng nâng cao năng lực và trình độ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân:

Thời gian qua, số lượng các vụ án bị Tòa án cấp trên hủy, sửa hàng năm ngày càng gia tăng. Trong đó có nguyên nhân chủ quan là do một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa nỗ lực nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Do đó, cần chú trọng nâng cao năng lực và trình độ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

– Chú trọng và tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân:

  • Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng nhiều hình thức phong phú, đa đạng;

  • Cung cấp những văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cho tất cả cán bộ trong ngành, giới thiệu văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản pháp luật có liên quan.

  • Phát hành các tạp chí tìm hiểu, hỏi đáp pháp luật miễn phí cho người dân khi đến Tòa án.

  • Tuyên truyền phổ biến pháp luật thông qua chi đoàn thanh niên, đội ngũ cán bộ cũng đã góp phần chuyển tải một số quy định của pháp luật đến với người dân một cách nhanh nhất. Đặc biệt là cần có sự kết hợp tuyên truyền pháp luật gắn liền với sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần chúng sẽ đem lại hiệu quả thiết thực, thu hút được nhiều đối tượng tham gia.

Trong tình hình hiện nay, số lượng án các loại trong đó có án kinh doanh thương mại có chiều hướng gia tăng. Để Toà án các cấp giải quyết, xét xử nhanh và đúng quy định của pháp luật thì cần thực hiện tốt các giải pháp trên. Qua bài viết này, rất mong được các độc giả quan tâm, đóng góp thêm về những vướng mắc trong quá trình giải quyết án kinh doanh thương mại, những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn nữa công tác giải quyết, xét xử án kinh doanh thương mại của ngành Toà án nhân dân.

Link bài viết: https://havip.com.vn/tranh-chap-kinh-doanh-thuong-mai-la-gi/

Link trang chủ: https://havip.com.vn/