Giáo trình Logic học đại cương – Trường Đại học quốc gia Hà Nội

Thứ nhất, phân loại căn cứ vào số lượng tiền đề

Căn cứ vào số lượng tiền đề của suy luận, người ta chia chúng ra thành suy luận trực tiếp – suy luận có một tiền đề, và suy luận gián tiếp – suy luận có từ hai tiền đề trở lên.

Ví dụ 3:

(a) Vì có một số người ủng hộ việc áp dụng kỹ thuật sinh sản vô tính với con người, nên không thể nói rằng mọi người đều phản đối điều này.

(b) Khi hiệp định thương mại với Mỹ được ký kết, cơ hội xuất khẩu hàng hoá của các công ty nước ta trở nên lớn hơn nhiều nhờ có được một thị trường rộng lớn. Ngày 14/7/2000 Hiệp định Thương mại Việt Nam – Mỹ đã được ký kết. Như vậy các công ty nước ta có được cơ hội lớn hơn nhiều để xuất khẩu hàng hoá.

Trong ví dụ 3, (a) là suy luận trực tiếp, còn (b) là suy luận có hai tiền đề, là suy luận gián tiếp.

Thứ hai, phân loại căn cứ vào việc sử dụng thông tin chứa trong cấu trúc chủ từ-thuộc từ của các phán đoán thuộc tính đơn.

Suy luận trong đó không tính đến thông tin chứa trong cấu trúc chủ từ – thuộc từ có mặt trong các tiền đề được gọi là suy luận với tiền đề phức, hay là suy luận trong logic mệnh đề. Suy luận trong đó có tính đến loại thông tin nêu trên gọi là suy luận trong logic vị từ. Một dạng của loại suy luận này mà chúng ta sẽ xét đến gọi là tam đoạn luận đơn.

Ví dụ 4: 

(a) Nếu thị trường vốn ngắn hạn của nước X hoàn toàn bị thả lỏng, không kiểm soát, thì nền kinh tế của nước X có thể gặp phải những chao đảo dữ dội. Thị trường vốn ngắn hạn của nước X bị thả lỏng, không kiểm soát. Vì thế nền kinh tế của nước X có thể gặp phải những chao đảo dữ dội.

(b) Mọi sinh viên hiện nay đều phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính. Minh là một sinh viên. Vậy Minh phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính.Ở ví dụ 4 này (a) là suy luận với tiền đề phức, còn (b) là một suy luận trong logic vị từ.

Thứ ba, phân loại theo độ tin cậy của kết luận

Nếu suy luận đảm bảo từ các tiền đề đúng kết luận sẽ chắc chắn đúng thì loại suy luận đó là suy luận diễn dịch. Còn nếu các tiền đề đúng, nhưng suy luận không đảm bảo kết luận là chắc chắn đúng thì loại suy luận đó là suy luận quy nạp. Đây là cách hiểu hiện đại của các thuật ngữ suy luận diễn dịch và suy luận quy nạp. Còn trong logic truyền thống người ta cho rằng suy luận, trong đó từ tiền đề là tri thức khái quát rút ra kết luận là tri thức riêng lẻ, thì gọi là suy luận diễn dịch. Suy luận trong đó từ các tiền đề là các tri thức riêng lẻ ta khái quát hoá lên thành kết luận là tri thức chung, khái quát, thì gọi là suy luận quy nạp. Ngoài hai loại này còn có dạng suy luận thứ ba là tương tự, hay còn gọi là loại suy, là loại suy luận, trong đó từ tri thức về một đối tượng hay một mối quan hệ nào đó, dựa trên sự tương đồng của đối tượng hay quan hệ này với một đối tượng hay quan hệ khác nhận được tri thức về đối tượng hay quan hệ thứ hai này.

Các tam đoạn luận đơn đã dẫn trên đây là các ví dụ suy luận diễn dịch. Nếu trong ví dụ 4(b) ta thấy có tiền đề là quy luật chung, khái quát “Mọi sinh viên hiện nay đều phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính”, từ đó người ta rút ra kết luận là tri thức về một đối tượng sinh viên riêng lẻ “Minh phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính” theo đúng như quan điểm truyền thống về diễn dịch, thì ở ví dụ 4(b) khó nói rằng tri thức trong các tiền đề khái quát hơn so với tri thức có trong kết luận, vì cũng đều nói về cùng một đối tượng (nước X). Rõ ràng là ở đây quan điểm hiện đại vềdiễn dịch hợp lý hơn.

Sau đây là một suy luận quy nạp (theo cả hai quan điểm truyền thống và hiện đại”.

Ví dụ 5: Aristote, Descartes, Newton, Leibniz, Poincaré, Einstein, Bohr, Heizenberg đều là các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại và đều là các nhà triết học lớn. Vậy các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại đều là các nhà triết học lớn.Trong ví dụ này ta thấy từ các trường hợp riêng Aristote, Descartes, Newton, Leibniz, Poincaré, Einstein, Bohr, Heizenberg nêu trong tiền đề, người ta đã khái quát hóa thành quy luật chung về tất cả các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại trong kết luận.

Ví dụ 6 sau đây là suy luận tương tự.

Ví dụ 6: Những giọt nước lớn không bền, chúng bị phân rã thành các giọt nước nhỏ hơn. Các nguyên tử lớn cũng giống như giọt nước. Vậy các nguyên tử có nguyên tử lượng lớn, tức là có kích thước lớn, cũng không bền, sẽ bị phân rã thành các nguyên tử nhẹ hơn.

Trong ví dụ trên đây căn cứ vào sự giống nhau của giọt nước và nguyên tử mà từ sự phân rã của những giọt nước lớn người ta đi đến kết luận về sự phân rã của các nguyên tử có nguyên tử lượng lớn.