Giáo dục giới tính cho học sinh THCS

I. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
1. Khách quan
Hiện nay, việc giảng dạy giáo dục giới tính cho học sinh chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến ở các trường trung học cơ sở (THCS) mà chỉ trên cơ sở lồng ghép vào một số môn học như giáo dục công dân, sinh học,… với thời lượng vô cùng ít ỏi (1-2 tiết).
Trong khi đó, ở lứa tuổi này, tâm – sinh lí các em đã có sự thay đổi lớn: cơ quan sinh sản của các em đã phát triển, bản năng sinh dục xuất hiện một cách vô ý thức, song song đó thì bộ não của các em cũng đã phát triển khá hoàn thiện, nảy sinh tình cảm với bạn khác giới. Các em thích tìm tòi, học hỏi những gì liên quan tới sự thay đổi của cơ thể mình. Nhưng kiến thức thì vô hạn, thông tin thì đa dạng, hàng ngày các em phải tiếp xúc với nhiều môi trường, làm nhiều công việc khác nhau, trong đó sẽ có cả điều tốt xen lẫn với điều xấu, điều cần có ở các em là những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn để các em bước vào đời vững vàng, không đi vào con đường lạc lối để ảnh hưởng tới tương lai, vì thế tui nhận thấy rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh THCS là rất cần thiết đối với các em.
2. Chủ quan
Bản thân tui là một giáo viên trẻ, thời gian công tác tại trường chưa lâu. Tuy nhiên trong năm học vừa qua, tui đã chứng kiến một học sinh phải bỏ học vì có thai và một học sinh khác phải nghỉ học vì gia đình ép lấy chồng. Có lẽ, nếu các em được giáo dục về giới tính thì những chuyện đáng tiếc trên đã không xảy ra. Mặt khác, ở vai trò một giáo viên dạy môn sinh học kiêm công tác chủ nhiệm, tui đã nhận được nhiều câu hỏi rất ngây ngô của học sinh như: “Có phải em bé được sinh ra từ lỗ hậu môn của mẹ không?”, “Tại sao lại sinh ra pê-đê?” Hoặc: “Em yêu bạn ấy, lúc nào cũng nghĩ đến bạn ấy, em không thể học được. Vậy em phải làm sao?… Điều đó cho thấy một thực trạng là: Kiến thức về giới tính của học sinh còn quá cùng kiệt nàn, ít ỏi. Do vậy, việc giáo dục giới tính và cách ứng xử trong giao tiếp với bạn khác giới cho học sinh THCS là một việc cần thiết và cấp bách.

II. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi :
– Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là công nghệ thông tin..
– Kho tư liệu phục vụ cho việc viết và báo cáo đề tài đa dạng.
– Các em học sinh sắp sửa và đang ở độ tuổi trưởng thành (từ 11 đến 16 tuổi) nên nhận thức và giáo dục về vấn đề giới tính dễ dàng hơn.
– Đa số các em có điều kiện tiếp xúc, tìm hiếu những kiến thức về giới tính khá dễ dàng từ nhiều nguồn khác nhau.
2. Khó khăn :
– Giáo viên và học sinh còn khá e dè, xấu hổ khi đề đập đến nội dung giới tính.
– Chương trình giáo dục giới tính chưa được thực hiện phổ biến ở trường học nhất là bậc học THCS.
– Chương trình học ngày càng nặng về kiến thức nên đòi hỏi cả giáo viên và học sinh luôn phải tập trung vào chương trình học ở trường nên không có nhiều thời gian dành cho việc tìm hiểu kiến thức về giới tính.
– Nhiều bậc cha mẹ vẫn còn cho rằng: Giáo dục giới tính là chuyện tế nhị, không nên đưa vào trường học hay phổ biến rộng rãi, đó là hành động “vẽ đường cho hươu chạy”, đến lúc rồi các em sẽ tự biết.
B. NỘI DUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
a. Khái niệm giáo dục giới tính (GDGT)?
Theo định nghĩa của ngành y tế, giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.
Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Các chương trình giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành niên những thông tin và giúp chúng phòng ngừa việc có thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ vô tình thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và bừa bãi. Tuy nhiên, thực tế thực hiện giáo dục giới tính ở nhiều nước cho thấy hoàn toàn ngược lại. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới tính trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho thấy trẻ vị thành niên có hoạt động tình dục trễ hơn, giảm hoạt động tình dục, biết cách sử dụng các biện pháp ngừa thai một cách hiệu quả, và hoàn toàn không thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và nhiều hơn. Giáo dục giới tính hiệu quả nhất khi thực hiện trước khi trẻ bước vào tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp khuyến khích trẻ không hoạt động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an toàn, giảm thiểu thai ngoài ý muốn ở các em.
Cuộc sống hoàn toàn không dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện nay đã và đang cho thấy điều đó. Nếu chúng ta mong đợi trẻ vị thành niên những quyết định đúng đắn, có trách nhiệm trước những cạm bẫy và thách thức của xã hội, chúng ta phải đảm bảo trẻ vị thành niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ năng và phương tiện để quyết định và các giá trị chúng cần tôn trọng và thực hiện. Chúng ta cần nhận thức rằng đã đến lúc để đặt kế hoạch cho tương lai và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó.
b. Giáo dục giới tính có sự khác biệt nào với giáo dục tình dục?
Mục tiêu của GDGT là chuẩn bị cho tuổi mới lớn về tâm lý trước phát triển sinh lý, về nhận thức để định hình nhân cách, tạo sức mạnh nội tâm đề kháng trước những bùng nổ giới tính của bản năng có thể gây hại cho bản thân, xung quanh.
Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình; hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
Như vậy GDGT và giáo dục tình dục tiếp cận giới trẻ ở hai độ tuổi khác nhau nên nội dung khác biệt rất lớn, khiến không thể thay thế hay lồng ghép vào nhau được.
c. Tại sao phải giáo dục giới tính cho học sinh Trung học cơ sở?
Các nhà nghiên cứu từ nhiều năm nay đều cho rằng, học sinh ngày càng năng động, thông minh hơn do điều kiện dinh dưỡng tốt, nhiều điều kiện thiết bị bổ trợ dẫn đến nhu cầu nhận thức về mọi mặt vượt khung chương trình giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt là về lĩnh vực giới tính.
Tuổi dậy thì của các em đến sớm hơn so với trước đây. Ở nữ, tuổi dậy thì bắt đầu từ 9-14, ở nam từ 12-15, nghĩa là giai đoạn các em đang ở bậc học Trung học cơ sở. Vì vậy khi một học sinh lớp 6 đã hỏi về vấn đề tình dục, một số em nữ học lớp 5 đã có kinh nguyệt, thì mãi đến lớp 8 các em mới được giới thiệu về những vấn đề này là quá muộn.
Ở giai đoạn dậy thì, các em phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ thể cũng như về tâm lí. Thậm chí có thể khiến các em bị khủng hoảng nếu không có sự chuẩn bị về tâm lí, sự chỉ bảo của người lớn. Khi đó các em sẽ tự tìm hiểu, tự thể nghiệm theo những thông tin trên sách báo, tivi, internet, …Tuy nhiên, các nguồn thông tin này không được kiểm soát và thường chứa nhiều điểm đen, lệch lạc. Điều này đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn như quan hệ tình dục quá sớm, có thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, phá thai, bỏ học,…
Trẻ mới lớn cần chỉ dẫn về giới tính và các mối quan hệ. Nhưng ai sẽ là người các em tìm tới khi gặp vấn đề về giới tính? Rất nhiều trẻ ngại nói chuyện với bố mẹ về tình yêu, tình dục vì sợ bố mẹ có thể không chấp nhận quan điểm của mình. Nhiều trẻ quay sang hỏi bạn bè và điều này có thể tạo nguy cơ cho trẻ vì những thông tin trẻ nhận được không phải bao giờ cũng đúng. Người duy nhất có thể cung cấp nhiều thông tin nhất cho trẻ là thầy cô giáo vì giáo viên (GV) là những người kề cận nhất với học sinh (HS) tại trường học và hiểu HS nhất trong vấn đề giới tính.
Trong khi đó vấn đề giáo dục giới tính trong các nhà trường hiện còn khá sơ sài, mang nặng tính hình thức khiến các em càng tò mò.
Thực tế này đặt ra vấn đề: Làm thế nào cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức, hiểu biết đúng đắn về tình bạn, tình yêu và sức khỏe sinh sản? Đáng tiếc là đến thời điểm hiện tại, những chương trình tuyên truyền, địa chỉ tư vấn về vấn đề này còn dè dặt và thiếu định hướng…
2. Cơ sở thực tiễn
a. Giáo dục giới tính trên thế giới
Ở các nước Âu Mỹ, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình giáo dục từ rất sớm và được xem như những bài học bắt buộc đối với học sinh.
Tại Pháp, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học trong trường từ năm 1973.
Tại Đức, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học từ năm 1970. Từ năm 1992 giáo dục giới tính được luật pháp quy định là trách nhiệm của chính phủ.
Hầu hết học sinh Hoa Kỳ đều nhận được một hình thức giáo dục giới tính ít nhất một lần trong khoảng từ lớp 7 đến lớp 12; nhiều trường bắt đầu đề cập tới một số chủ đề ngay từ lớp 5 hay lớp 6. Một cuộc điều tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liên quan tới thói quen của thanh niên châu Âu năm 2006 cho thấy, tuy có lối sống khá thoáng nhưng tỉ lệ sinh trong độ tuổi vị thành niên và tỉ lệ nạo phá thai ở các nước này rất thấp.
Sự xuất hiện và lan rộng khủng khiếp của căn bệnh thế kỷ AIDS đã mang lại một ý nghĩa khẩn cấp mới cho chủ đề giáo dục giới tính. Tại nhiều nơi ở Châu Phi, nơi AIDS đã trở thành bệnh dịch, giáo dục giới tính được coi là một chiến lược sống còn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Khảo sát các chương trình giáo dục giới tính ở Châu Á cũng đang có những mức độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có khung chính sách hệ thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học. Malaysia, Philippines và Thái Lan đánh giá các nhu cầu sức khoẻ sinh sản thanh niên. Ấn Độ có các chương trình với mục tiêu hướng tới trẻ em từ chín tới mười sáu tuổi. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là bắt buộc từ 10 hay 11 tuổi, chủ yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và xuất tinh. Tại Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về đoạn sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học.

Xem link download tại Blog Kết nối!

Tiểu luận Vai trò của giáo dục giới tính đối với tuổi vị
Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học nội dung sinh học cơ thể
Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản của
Ảnh vui về giáo dục giới tính ở phương Tây
Tìm hiểu thái độ của học sinh vài trường PTTH ở Hà Nội khi
Bằng sự hiểu biết về giáo dục làm sáng tỏ luận điểm: Đầu tư
Đề tài Khảo sát ý kiến sinh viên về việc có nên đưa giáo
Giáo dục học sinh cá biệt trong trường học

Download Đề tài Giáo dục giới tính cho học sinh THCS miễn phíI. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI1. Khách quanHiện nay, việc giảng dạy giáo dục giới tính cho học sinh chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến ở các trường trung học cơ sở (THCS) mà chỉ trên cơ sở lồng ghép vào một số môn học như giáo dục công dân, sinh học,… với thời lượng vô cùng ít ỏi (1-2 tiết).Trong khi đó, ở lứa tuổi này, tâm – sinh lí các em đã có sự thay đổi lớn: cơ quan sinh sản của các em đã phát triển, bản năng sinh dục xuất hiện một cách vô ý thức, song song đó thì bộ não của các em cũng đã phát triển khá hoàn thiện, nảy sinh tình cảm với bạn khác giới. Các em thích tìm tòi, học hỏi những gì liên quan tới sự thay đổi của cơ thể mình. Nhưng kiến thức thì vô hạn, thông tin thì đa dạng, hàng ngày các em phải tiếp xúc với nhiều môi trường, làm nhiều công việc khác nhau, trong đó sẽ có cả điều tốt xen lẫn với điều xấu, điều cần có ở các em là những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn để các em bước vào đời vững vàng, không đi vào con đường lạc lối để ảnh hưởng tới tương lai, vì thế tui nhận thấy rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh THCS là rất cần thiết đối với các em.2. Chủ quanBản thân tui là một giáo viên trẻ, thời gian công tác tại trường chưa lâu. Tuy nhiên trong năm học vừa qua, tui đã chứng kiến một học sinh phải bỏ học vì có thai và một học sinh khác phải nghỉ học vì gia đình ép lấy chồng. Có lẽ, nếu các em được giáo dục về giới tính thì những chuyện đáng tiếc trên đã không xảy ra. Mặt khác, ở vai trò một giáo viên dạy môn sinh học kiêm công tác chủ nhiệm, tui đã nhận được nhiều câu hỏi rất ngây ngô của học sinh như: “Có phải em bé được sinh ra từ lỗ hậu môn của mẹ không?”, “Tại sao lại sinh ra pê-đê?” Hoặc: “Em yêu bạn ấy, lúc nào cũng nghĩ đến bạn ấy, em không thể học được. Vậy em phải làm sao?… Điều đó cho thấy một thực trạng là: Kiến thức về giới tính của học sinh còn quá cùng kiệt nàn, ít ỏi. Do vậy, việc giáo dục giới tính và cách ứng xử trong giao tiếp với bạn khác giới cho học sinh THCS là một việc cần thiết và cấp bách.II. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI1. Thuận lợi :- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là công nghệ thông tin..- Kho tư liệu phục vụ cho việc viết và báo cáo đề tài đa dạng.- Các em học sinh sắp sửa và đang ở độ tuổi trưởng thành (từ 11 đến 16 tuổi) nên nhận thức và giáo dục về vấn đề giới tính dễ dàng hơn.- Đa số các em có điều kiện tiếp xúc, tìm hiếu những kiến thức về giới tính khá dễ dàng từ nhiều nguồn khác nhau.2. Khó khăn :- Giáo viên và học sinh còn khá e dè, xấu hổ khi đề đập đến nội dung giới tính.- Chương trình giáo dục giới tính chưa được thực hiện phổ biến ở trường học nhất là bậc học THCS.- Chương trình học ngày càng nặng về kiến thức nên đòi hỏi cả giáo viên và học sinh luôn phải tập trung vào chương trình học ở trường nên không có nhiều thời gian dành cho việc tìm hiểu kiến thức về giới tính.- Nhiều bậc cha mẹ vẫn còn cho rằng: Giáo dục giới tính là chuyện tế nhị, không nên đưa vào trường học hay phổ biến rộng rãi, đó là hành động “vẽ đường cho hươu chạy”, đến lúc rồi các em sẽ tự biết.B. NỘI DUNGI. ĐẶT VẤN ĐỀ1. Cơ sở lý luậna. Khái niệm giáo dục giới tính (GDGT)?Theo định nghĩa của ngành y tế, giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Các chương trình giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.Một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành niên những thông tin và giúp chúng phòng ngừa việc có thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ vô tình thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và bừa bãi. Tuy nhiên, thực tế thực hiện giáo dục giới tính ở nhiều nước cho thấy hoàn toàn ngược lại. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới tính trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho thấy trẻ vị thành niên có hoạt động tình dục trễ hơn, giảm hoạt động tình dục, biết cách sử dụng các biện pháp ngừa thai một cách hiệu quả, và hoàn toàn không thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và nhiều hơn. Giáo dục giới tính hiệu quả nhất khi thực hiện trước khi trẻ bước vào tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp khuyến khích trẻ không hoạt động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an toàn, giảm thiểu thai ngoài ý muốn ở các em.Cuộc sống hoàn toàn không dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện nay đã và đang cho thấy điều đó. Nếu chúng ta mong đợi trẻ vị thành niên những quyết định đúng đắn, có trách nhiệm trước những cạm bẫy và thách thức của xã hội, chúng ta phải đảm bảo trẻ vị thành niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ năng và phương tiện để quyết định và các giá trị chúng cần tôn trọng và thực hiện. Chúng ta cần nhận thức rằng đã đến lúc để đặt kế hoạch cho tương lai và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó.b. Giáo dục giới tính có sự khác biệt nào với giáo dục tình dục?Mục tiêu của GDGT là chuẩn bị cho tuổi mới lớn về tâm lý trước phát triển sinh lý, về nhận thức để định hình nhân cách, tạo sức mạnh nội tâm đề kháng trước những bùng nổ giới tính của bản năng có thể gây hại cho bản thân, xung quanh.Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình; hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.Như vậy GDGT và giáo dục tình dục tiếp cận giới trẻ ở hai độ tuổi khác nhau nên nội dung khác biệt rất lớn, khiến không thể thay thế hay lồng ghép vào nhau được.c. Tại sao phải giáo dục giới tính cho học sinh Trung học cơ sở?Các nhà nghiên cứu từ nhiều năm nay đều cho rằng, học sinh ngày càng năng động, thông minh hơn do điều kiện dinh dưỡng tốt, nhiều điều kiện thiết bị bổ trợ dẫn đến nhu cầu nhận thức về mọi mặt vượt khung chương trình giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt là về lĩnh vực giới tính.Tuổi dậy thì của các em đến sớm hơn so với trước đây. Ở nữ, tuổi dậy thì bắt đầu từ 9-14, ở nam từ 12-15, nghĩa là giai đoạn các em đang ở bậc học Trung học cơ sở. Vì vậy khi một học sinh lớp 6 đã hỏi về vấn đề tình dục, một số em nữ học lớp 5 đã có kinh nguyệt, thì mãi đến lớp 8 các em mới được giới thiệu về những vấn đề này là quá muộn.Ở giai đoạn dậy thì, các em phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ thể cũng như về tâm lí. Thậm chí có thể khiến các em bị khủng hoảng nếu không có sự chuẩn bị về tâm lí, sự chỉ bảo của người lớn. Khi đó các em sẽ tự tìm hiểu, tự thể nghiệm theo những thông tin trên sách báo, tivi, internet, …Tuy nhiên, các nguồn thông tin này không được kiểm soát và thường chứa nhiều điểm đen, lệch lạc. Điều này đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn như quan hệ tình dục quá sớm, có thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, phá thai, bỏ học,…Trẻ mới lớn cần chỉ dẫn về giới tính và các mối quan hệ. Nhưng ai sẽ là người các em tìm tới khi gặp vấn đề về giới tính? Rất nhiều trẻ ngại nói chuyện với bố mẹ về tình yêu, tình dục vì sợ bố mẹ có thể không chấp nhận quan điểm của mình. Nhiều trẻ quay sang hỏi bạn bè và điều này có thể tạo nguy cơ cho trẻ vì những thông tin trẻ nhận được không phải bao giờ cũng đúng. Người duy nhất có thể cung cấp nhiều thông tin nhất cho trẻ là thầy cô giáo vì giáo viên (GV) là những người kề cận nhất với học sinh (HS) tại trường học và hiểu HS nhất trong vấn đề giới tính.Trong khi đó vấn đề giáo dục giới tính trong các nhà trường hiện còn khá sơ sài, mang nặng tính hình thức khiến các em càng tò mò.Thực tế này đặt ra vấn đề: Làm thế nào cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức, hiểu biết đúng đắn về tình bạn, tình yêu và sức khỏe sinh sản? Đáng tiếc là đến thời điểm hiện tại, những chương trình tuyên truyền, địa chỉ tư vấn về vấn đề này còn dè dặt và thiếu định hướng…2. Cơ sở thực tiễna. Giáo dục giới tính trên thế giớiỞ các nước Âu Mỹ, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình giáo dục từ rất sớm và được xem như những bài học bắt buộc đối với học sinh.Tại Pháp, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học trong trường từ năm 1973.Tại Đức, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học từ năm 1970. Từ năm 1992 giáo dục giới tính được luật pháp quy định là trách nhiệm của chính phủ.Hầu hết học sinh Hoa Kỳ đều nhận được một hình thức giáo dục giới tính ít nhất một lần trong khoảng từ lớp 7 đến lớp 12; nhiều trường bắt đầu đề cập tới một số chủ đề ngay từ lớp 5 hay lớp 6. Một cuộc điều tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liên quan tới thói quen của thanh niên châu Âu năm 2006 cho thấy, tuy có lối sống khá thoáng nhưng tỉ lệ sinh trong độ tuổi vị thành niên và tỉ lệ nạo phá thai ở các nước này rất thấp.Sự xuất hiện và lan rộng khủng khiếp của căn bệnh thế kỷ AIDS đã mang lại một ý nghĩa khẩn cấp mới cho chủ đề giáo dục giới tính. Tại nhiều nơi ở Châu Phi, nơi AIDS đã trở thành bệnh dịch, giáo dục giới tính được coi là một chiến lược sống còn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.Khảo sát các chương trình giáo dục giới tính ở Châu Á cũng đang có những mức độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có khung chính sách hệ thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học. Malaysia, Philippines và Thái Lan đánh giá các nhu cầu sức khoẻ sinh sản thanh niên. Ấn Độ có các chương trình với mục tiêu hướng tới trẻ em từ chín tới mười sáu tuổi. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là bắt buộc từ 10 hay 11 tuổi, chủ yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và xuất tinh. Tại Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về đoạn sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học.Xem link download tại Blog Kết nối!Tiểu luận Vai trò của giáo dục giới tính đối với tuổi vịTích hợp giáo dục giới tính trong dạy học nội dung sinh học cơ thểThực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản củaẢnh vui về giáo dục giới tính ở phương TâyTìm hiểu thái độ của học sinh vài trường PTTH ở Hà Nội khiBằng sự hiểu biết về giáo dục làm sáng tỏ luận điểm: Đầu tưĐề tài Khảo sát ý kiến sinh viên về việc có nên đưa giáoGiáo dục học sinh cá biệt trong trường học