Giá trị và ý nghĩa của 10 cuộc cải cách lớn trong lịch sử đối với cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Cải cách, đổi mới để phát triển đất nước là nhu cầu tất yếu của mỗi giai đoạn lịch sử. Có thể khái quát những nội dung cải cách hành chính (CCHC) cơ bản của 10 cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam như sau:

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa (giữa); Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng (trái) và Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính Phạm Minh Hùng chủ trì Hội thảo khoa học “Dấu ấn cải cách hành chính thời Nguyễn – Giá trị lịch sử và đương đại”. Ảnh minh họa

1. Cải cách của họ Khúc ở thế kỷ X

Bối cảnh: từ thế kỷ IX trở đi, nhà Đường (Trung Quốc) tan rã nhanh chóng và suy vong, chính quyền đô hộ Giao Châu hoang mang, bất lực. Năm 905, Khúc Thừa Dụ lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền, thiết lập một chính quyền tự chủ do ông đứng đầu, thay cho chính quyền đô hộ nhà Đường. Tháng 7/907, Khúc Thừa Dụ mất, con của ông là Khúc Hạo tiếp tục sự nghiệp tự chủ và đã thực hiện một số cải cách trong 10 năm rồi cũng qua đời.

Nội dung: cuộc cải cách của nhà họ Khúc được tiến hành với nhiều nội dung, nhưng quan trọng nhất là việc xây dựng hệ thống chính quyền tự chủ theo thể chế thống nhất, tập trung quyền lực vào một mối. Khúc Hạo có những cố gắng đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ Trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là hương, nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và thu thuế. Theo sách An Nam Chí Nguyên, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây do nhà Đường đặt, tất cả toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.

2. Cải cách của vua Lý Công Uẩn ở thế kỷ XI

Bối cảnh: cuối thời Tiền Lê, dưới thời vua Lê Long Đĩnh, tình hình triều chính phức tạp, suy yếu, đất nước khủng hoảng. Vào năm 1009, sau khi vua Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn lên ngôi vua nhờ sự ủng hộ của quan lại, quân sĩ triều đình cùng giới sư sãi. Lý Công Uẩn lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Thái Tổ, chọn niên hiệu là Thuận Thiên và lấy năm Canh Tuất (năm 1010) làm năm mở đầu cho triều đại.

Nội dung: một sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc ghi dấu ấn của vua Lý Thái Tổ trong cải cách nói chung và CCHC nói riêng chính là cuộc dời đô từ Hoa Lư về Đại La, Thăng Long – Đông Đô (Hà Nội ngày nay). Việc Lý Công Uẩn dời đô về thành Thăng Long là một sự kiện lịch sử có vị trí quan trọng trong sự phát triển xã hội. Nhờ đó, chính quyền trung ương ở vào nơi trung tâm đất nước. Đóng góp rất lớn của vua Lý Thái Tổ là cải cách bộ máy hành chính thống nhất từ Trung ương tới địa phương, chia đất nước từ 10 đạo thời Đinh – Tiền Lê thành 24 lộ và đổi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, đổi thành Hoa Lư làm phủ Trường An, phủ Ứng Thiên là Nam Kinh, trấn Chiêu Dương làm châu Vĩnh An. Những nơi xa xôi, miền núi như châu Hoan, châu Ái (từ Thanh Hóa vào đến Quảng Bình) và vùng dân tộc ít người được đổi thành các trại. Dưới lộ có phủ, châu, các đơn vị hành chính cơ sở là hương và giáp. Việc phân chia các đơn vị hành chính từ Trung ương tới địa phương của nhà Lý không chỉ thể hiện sự thống nhất của quốc gia mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đất nước.

3. Cải cách của Thái sư Trần Thủ Độ

Bối cảnh: vào đầu thế kỷ XIII, triều đình nhà Lý đã suy thoái nghiêm trọng, hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực họ Trần. Lấy được ngôi vua, lập triều đại mới (lúc đó vua Trần Cảnh còn nhỏ), mọi việc triều chính đều do Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Trần Thừa điều hành. Đây là điều kiện cần để Thái sư Trần Thủ Độ có thể giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị – xã hội ngày càng trầm trọng của đất nước.

Nội dung: tư tưởng và khát vọng xuyên suốt của Thái sư Trần Thủ Độ là xây dựng một vương triều mạnh, vua sáng – tôi trung; một bộ máy nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, thống nhất để chăm cho dân yên, nước mạnh. Những nội dung cải cách nổi bật của Thái sư Trần Thủ Độ toàn diện cả về kinh tế, xã hội, trong đó có một số nội dung về CCHC. Về cơ chế quản lý: ngay từ đầu Thái sư Trần Thủ Độ chủ trương đặt ra cơ chế Thượng hoàng nhiếp chính trong triều đình, tức là Thượng hoàng hỗ trợ, giúp đỡ, cố vấn cho vua kế vị. Đây là điểm hoàn toàn mới trong tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần mà chưa có tiền lệ. Về tổ chức bộ máy: chủ trương xây dựng bộ máy nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, thống nhất từ trung ương đến cấp cơ sở làng xã. Ông chia nước làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt chức Chánh và Phó An phủ sứ kiêm từ việc hộ khẩu, tiền thóc, ngục tụng đều giữ hết quyền bính trong tay. Dưới quyền An phủ sứ có các chức quan Đại tư xã, Tiểu tư xã, cùng với chức xã chính, Sử giám, gọi là xã quan. Về chế độ quan lại: quan tâm chế độ học hành, khoa cử, mời nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng Tứ thư, Ngũ kinh.

4. Cải cách của Hồ Quý Ly

Bối cảnh: đất nước ta cuối thế kỷ XIV lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Chính quyền suy yếu, triều chính thêm rối ren, tài chính kiệt quệ, quân Minh đang nhòm ngó đất nước ta… đòi hỏi phải canh tân đưa đất nước vượt qua khó khăn. Đó là những tiền đề dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đổi niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu.

Nội dung: Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, tài chính, kinh tế – xã hội và văn hóa giáo dục… với những đổi mới táo bạo, quyết liệt, trong đó có CCHC nổi bật về quan lại và bộ máy. Về xây dựng đội ngũ quan lại, Hồ Quý Ly rất quan tâm đến giáo dục và thi cử nhằm lựa chọn, xây dựng đội ngũ quan lại có tài và trọng dụng họ, không căn cứ vào nguồn gốc xuất thân. Nhờ đó Hồ Quý Ly thay thế chế độ quan liêu thân tộc cũ, bổ sung một đội ngũ quan lại từ Trung ương đến địa phương. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa lại chế độ thi cử đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Về tổ chức bộ máy, ông đã đổi một số lộ xa thành trấn, châu thành lộ. Ở cấp lộ đặt chức chánh, phó an phủ sứ như cũ; ở cấp phủ có chức chánh, phó phủ sứ; ở cấp châu có chức thông phán, thiên phán; ở cấp huyện có lệnh úy, chủ bạ… Hàng năm, ông cho các quan lại ở trung ương về các địa phương để đánh giá hoạt động của các quan lại tại đó. Quy định các công việc đều ghi vào sổ sách để cuối năm báo cáo lên triều đình.

5. Cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông ở thế kỷ XV

Bối cảnh: vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tiến hành cuộc cải cách trong bối cảnh đất nước sau một thời gian dài chiến tranh, khủng hoảng, bộ máy hành chính nhà nước yếu kém về nhiều mặt. Ông đã kiên quyết thực hiện CCHC, coi đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển và thực hiện các cải cách khác.

Nội dung: cuộc cải cách được tiến hành toàn diện trên nhiều mặt, đem lại sự thay đổi lớn. Đặc biệt, một số nội dung nổi bật như xây dựng, củng cố chế độ Trung ương tập quyền mạnh, tập trung quyền lực vào tay nhà vua, phát huy vai trò tối cao của vua trong cai trị đất nước, điều hành triều chính về quyền lực và sự gương mẫu. Xây dựng kỷ cương, phép nước, bảo đảm quản lý bằng pháp luật, đề cao pháp luật. Vua Lê Thánh Tông luôn đề cao vai trò của pháp luật, chú trọng xây dựng và thực hiện pháp luật; cho biên soạn Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng. Ngoài ra còn có nhiều sắc chỉ về các quy định tuyển dụng, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật đội ngũ quan lại… Căn cứ vào các văn bản luật, ông kiểm tra, giám sát, khen thưởng và xử phạt quan lại chính xác, hiệu quả.

Thống nhất tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương tinh gọn, trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ để đảm bảo hoạt động thông suốt, hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc “trên dưới liên kết hiệp đồng, trong ngoài kiềm chế lẫn nhau” trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Lịch sử đã ghi nhận: “Dưới triều vua Lê Thánh Tông, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ hỗ trợ, giám sát lẫn nhau giữa các bộ, khoa, tự, giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, trình tự, quy chế làm việc được phân định cụ thể, rành mạch”(1). Dưới triều vua Lê Thánh Tông, nguyên tắc này được thực hiện ở triều đình trung ương, lục bộ, các cơ quan chuyên trách và ở tất cả các cấp hành chính địa phương.

Xây dựng đội ngũ quan lại hiền tài, trung thành: vua Lê Thánh Tông chú trọng tuyển chọn, tiến cử quan lại một cách công khai, minh bạch, tạo điều kiện nhiều người hiền tài được tiến cử để triều đình xem xét, tuyển chọn. Ông đã lựa chọn được những quan lại hiền tài, tránh được căn bệnh “chạy chức, chạy quyền”, “mua quan, bán tước”. Rèn luyện đạo đức cho đội ngũ quan lại: nhà vua yêu cầu đội ngũ quan lại phải “lấy chữ lễ, nghĩa, liêm, sĩ mà dạy dân, khiến cho dân hướng về chữ nhân, chữ nhường, bỏ hết lòng gian phi”, để cho dân được an cư, lạc nghiệp, giàu có và đông đúc.

Vua Lê Thánh Tông thực hiện chế độ “hồi tỵ”, với mục đích đề phòng quan lại gây bè, kéo cánh, đem tình cảm riêng câu kết với nhau để thực hiện hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật. Trong Bộ luật Hồng Đức, triều đình quy định những điều khoản phải “hồi tỵ”: cha con, thầy trò, anh em, vợ chồng, thông gia… không được làm quan cùng một chỗ, không được tổ chức thi cùng một nơi. Để chế độ “hồi tỵ” được thực hiện nghiêm chỉnh, nhiều quy định cụ thể đã được đặt ra để răn đe, xử phạt những quan lại vi phạm các quy định về chế độ “hồi tỵ”. Những quy định trong chế độ “hồi tỵ” được áp dụng rất cụ thể, đối tượng, phạm vi áp dụng rộng, chế tài áp dụng nghiêm khắc đã góp phần làm cho bộ máy nhà nước được củng cố, tránh được tình trạng cục bộ, bè phái, câu kết trong những vấn đề nhạy cảm, như tuyển dụng, khen thưởng, đề bạt, tham nhũng…

Xây dựng bộ máy kiểm tra, giám sát khách quan, công bằng: cơ chế kiểm tra, giám sát quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông có thể chia làm hai nhóm: cơ chế tự kiểm tra, giám sát quan lại của mỗi hệ thống và cơ chế kiểm tra, giám sát quan lại từ bên ngoài hệ thống. Việc kiểm tra, giám sát đảm bảo tính độc lập cao, khách quan, uy quyền thực sự cho các quan ngự sử, giúp họ đánh giá, xét xử quan lại khách quan, đúng với công, tội. Cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông tương đối toàn diện, mang lại sự hưng thịnh cho đất nước lúc bấy giờ, tình hình chính trị – xã hội ổn định, kinh tế đất nước phát triển, dân trí được nâng cao, năng lực quốc phòng được tăng cường, chế độ quân chủ Trung ương tập quyền được củng cố….

6. Cải cách của vua Quang Trung

Bối cảnh: trong thế kỷ XVIII, nước Đại Việt dưới quyền cai trị của vua Lê với danh nghĩa tượng trưng, quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình phong kiến: các chúa Trịnh ở phía Bắc, kiểm soát nhà vua, điều khiển triều đình ở Thăng Long và các chúa Nguyễn ở phía Nam, đóng đô tại thành Phú Xuân. Tình hình xã hội mất ổn định, rối loạn, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Phong trào Tây Sơn do anh em nhà Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi xướng đã có những cống hiến đáng kể trên con đường lập lại nền thống nhất quốc gia như: xóa bỏ tình trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài trên hai thế kỷ; lật đổ chính quyền chúa Nguyễn và chúa Trịnh. Tiếp quản Phú Xuân năm 1786 rồi lên ngôi Hoàng đế năm 1788, Nguyễn Huệ – Quang Trung bắt tay vào công cuộc xây dựng và cải cách của mình.

Nội dung: “Quang Trung không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc mà còn là một nhà chính trị có biệt tài”(2), thể hiện qua sự quyết tâm và tầm nhìn chiến lược, liên tiếp đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự… nhằm khôi phục, xây dựng đất nước. Nội dung CCHC nổi bật của vua Quang Trung là phát triển đội ngũ quan lại: ông đặc biệt chú trọng vào việc “cầu hiền tài”, xuống chiếu cầu hiền và trọng dụng nhiều nhân tài như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiệp, Nguyễn Huy Lượng… Ông là một trong số ít quân vương trong  lịch sử đã từng phong tướng cho phụ nữ – nữ tướng Bùi Thị Xuân; rất coi trọng danh sĩ trí thức, hết lòng chiêu hiền đãi sĩ, thưởng phạt phân minh, qua đó đã xây dựng được tinh thần đoàn kết, quyết tâm, đồng thuận trong cả hệ thống.

7. Cải cách của Trịnh Cương ở Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII

Bối cảnh: Trịnh Cương kế ngôi chúa năm 1709 khi đất nước vừa chấm dứt thời kỳ nội chiến kéo dài hơn 100 năm, nhưng hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề. Cuộc cải cách của Trịnh Cương được tiến hành vào giai đoạn 1716-1729, thuộc nửa đầu thế kỷ XVIII.

Nội dung: khác với những cuộc cải cách của nhiều triều đại, nhiều nhà tư tưởng lớn được tiến hành trên nhiều mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, hành chính thì cải cách của chúa Trịnh Cương nổi bật ở nội dung cải cách tài chính, trong đó có nội dung cải cách tài chính công. Sau 7 năm thi hành các biện pháp trên mới tiến hành cuộc cải cách tài chính, gồm 10 hạng mục: xóa bỏ phép binh lệ, làm lại sổ hộ, bỏ tên người đã chết, thêm số người đến tuổi vào sổ hộ để chịu thuế; định phép chia đều thuế khóa và tạp dịch cho cả dinh và điền; đánh thuế ruộng tư; thu thuế khai thác và tiêu thụ đồng, quế, muối; giảm bớt viên chức để giảm bớt chi lương bổng; thi hành phép đánh thuế tô (thuế ruộng), dung (thuế thân), điệu (thuế sai dịch); đặt thêm sở tuần ty ở các trấn để tận thu thuế thương nghiệp; thu thuế các loại thổ sản khác; thu thuế đất ở đô thị; định ra các thể lệ giảm, miễn thuế.

Những cải cách về tài chính công của chúa Trịnh Cương đã bảo đảm quyền lợi cho những quan lại, binh lính làm việc trong bộ máy nhà nước. Đó là chính sách ưu đãi giới quan liêu bằng việc tăng thêm phần ruộng cho các quan lại, binh lính và khi có việc “do quan dịch nặng nề bức bách” thì “cho phép bán ruộng công khẩu phần” tức mở rộng diện cho sự tấn công của chế độ sở hữu tư nhân vào ruộng công, tăng cường xu thế tích tụ ruộng đất. Vì vậy, đất nước đã tạm thời giải quyết được khó khăn về tài chính, ổn định được tình hình, củng cố được kỷ cương, trật tự xã hội sau thời gian dài nội chiến. Cuộc sống của nông dân cũng bớt đói khổ, có những bước phát triển từ sự tư hữu hóa ruộng đất.

8. Cải cách hành chính của vua Minh Mạng ở thế kỷ XIX

Bối cảnh: Minh Mạng (hoặc Minh Mệnh), là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn, trị vì từ năm 1820 đến năm 1841. Ông là vị vua có nhiều thành tích nhất của nhà Nguyễn, là một vị vua năng động, quyết đoán, tinh thông nho học, hiểu biết, coi trọng học vấn và là nhà chính trị, quân sự tài ba. Đây được xem là thời kỳ hùng mạnh cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam.

Nội dung: vua Minh Mạng đã thi hành nhiều chính sách và biện pháp cải cách, trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội giúp cho đất nước giai đoạn ông trị vì là thời kỳ thịnh trị nhất trong lịch sử chế độ quân chủ nhà Nguyễn. Trong đó phải kể đến cải cách bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống quan lại.

Về tổ chức bộ máy: nhà vua đổi mới và thống nhất được hệ thống hành chính quốc gia, kể cả phân cấp hệ thống hành chính, phân định lại toàn bộ địa giới hành chính cả nước tinh gọn và dễ kiểm soát hơn. Đàng Ngoài và Đàng Trong cũ được phân chia lại thành 27 trấn, doanh (hoặc dinh), triều đình Huế trực tiếp quản lý 4 doanh (Kinh kỳ) Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (sau đổi thành phủ Thừa Thiên), Quảng Nam và 7 trấn từ Nghệ An đến Bình Thuận. Vua Minh Mạng đặt tên gọi cho “Nam Bắc trực, Tả Hữu kỳ và Nam Bắc kỳ (Quảng Nam, Quảng Ngãi là Nam trực; Quảng Trị, Quảng Bình là Bắc trực; Bình Định đến Bình Thuận là Tả kỳ; Hà Tĩnh đến Thanh Hoa (nay là tỉnh Thanh Hóa) là Hữu kỳ; Biên Hòa đến Hà Tiên là Nam kỳ; Ninh Bình đến Lạng Sơn là Bắc kỳ”. Vua Minh Mạng đổi tên nước Việt Nam thành Đại Nam, lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở Huế.

Về đội ngũ quan lại: Vua chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại hiền tài, thiết lập lại chế định ngạch, bậc quan lại từ Trung ương đến địa phương. Vua bãi bỏ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi. Nhà vua rất chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quan lại để tiến cử vào các cơ quan hành chính nhà nước. Trong những năm trị vì, vua Minh Mạng xác định học vấn làm tiêu chuẩn để tuyển dụng quan lại cho bộ máy hành chính. Dưới triều ông cai trị, con đường khoa cử được thay thế con đường nhiệm tử. Cứ 3 năm một lần vua Minh Mạng lại mở một khoa thi để tuyển chọn nhân tài. Các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu ông mở kỳ thi Hương; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mở kỳ thi Hội. Đồng thời khuyến cáo các quan cần cải tiến chế độ và nội dung thi cử quy củ, thực chất. Để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, ông cho chấn chỉnh việc học, việc thi, đặt chức học quan ở các địa phương, chu cấp lương bổng, ruộng đất cho số học quan này để họ chăm lo sự học cho xã hội.

Về xây dựng pháp luật và kỷ cương hành chính: vua Minh Mạng là người rất chú ý tạo lập một nền cai trị kết hợp giữa lễ trị và pháp trị, rất chú trọng giữ gìn kỷ cương phép nước. Ông thường lấy 4 chữ “Chính – Đại – Quang – Minh” làm tôn chỉ cho việc điều hành bộ máy hành chính. Ngoài các điều luật trong Bộ luật Gia Long, vua Minh Mạng còn định thêm các điều luật mới để xét xử những việc làm sai trái của các quan ở kinh đô và các tỉnh, định lệ việc xử phạt quan lại tham nhũng, hối lộ, định lệ việc xét các địa phương xử án hay hoặc dở, làm tiêu chuẩn để kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ quan lại(3). Để kiểm soát chặt chẽ quyền lực, phòng, chống sự tha hóa quyền lực, ông mở rộng diện và đối tượng áp dụng chế độ hồi tỵ. Những quy định trong chế độ hồi tỵ được áp dụng nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình dưới triều Nguyễn. Đồng thời, quy định rõ hình phạt nếu quan lại vi phạm các quy định về chế độ hồi tỵ, thực hiện chống tham nhũng, góp phần làm cho bộ máy hành chính triều Nguyễn được củng cố, tránh được tình trạng cục bộ, bè phái, thao túng, thâu tóm quyền lực, tha hóa quyền lực trong bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại các cấp.

Cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự thống nhất đất nước về mặt nhà nước; tăng cường quyền lực trong tay vua, tổ chức chính quyền chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, tăng cường tính chuyên chế; cách phân chia các tỉnh của vua Minh Mạng được dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với phạm vi quản lý của một tỉnh… đây là cơ sở để thành lập, phân chia các tỉnh như ngày nay./.

(Còn nữa)

———————–

Ghi chú:

(1) Bùi Huy Khiên, Những bài học kinh nghiệm từ hai cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8/2011.

(2) Phan Huy Lê, Tìm hiểu thêm về phong trào nông dân Tây Sơn, Nxb Giáo dục, H.1961, tr.104.

(3) Bộ Nội vụ, Dấu ấn cải cách hành chính thời Nguyễn – Giá trị lịch sử và đương đại, Kỷ yếu Hội thảo năm 2018, tr.18.

 

TS Phùng Thị Phong Lan – Học viện Hành chính Quốc gia, Bộ Nội vụ

 

Theo: https://tcnn.vn/