GIỚI THIỆU CHUNG
UBND thị xã Chơn Thành
UBND thị xã Chơn Thành
https://chonthanh.binhphuoc.gov.vn/uploads/chonthanh/logo.png
Huyện Chơn Thành được thành lập theo Nghị định số 17/2003/NĐ-CP ngày 20/02/2003 của Chính phủ gồm 08 xã, thị trấn (Minh Long, Minh Thành, Tân Quan, Nha Bích, Minh Lập, Minh Thắng, Minh Hưng và thị trấn Chơn Thành).
Ngày 16/5/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2005/NĐ-CP thành lập xã Thành Tâm huyện Chơn Thành trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của thị trấn Chơn Thành và ngày 10/4/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/NĐ-CP, thành lập xã Quang Minh, huyện Chơn Thành trên có sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số xã Tân Quan. Tại Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 11/8/2009 của Chính phủ quyết định điều chuyển toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Quan về huyện Bình Long quản lý.
Sau khi thực hiện các Nghị định của Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính, đến thời diểm hiện nay, huyện Chơn Thành có 09 đơn vị hành chính cấp xã (Minh Long, Minh Thành, Tân Quan, Nha Bích, Minh Lập, Minh Thắng, Minh Hưng và thị trấn Chơn Thành).
1. Chơn Thành qua các thời kỳ lịch sử:
Truyện kể rằng: một lần trong tình thế khó khăn khi chạy đến địa phận Chơn Thành ngày nay, Nguyễn Ánh đã được nhân dân địa phương giúp đỡ lương thực và che chở. Sau này khi lên ngôi, Gia Long nhớ đến và đặt tên cho vùng đất có những người chân tình, thành thật ấy là Chân Thành (đọc trại là Chơn Thành) để ghi ơn cưu mang của người dân nơi đây.
Đến thế kỷ XIX, nhà Nguyễn chia vùng đất Nam Bộ thành 6 tỉnh (còn gọi miền lục tỉnh); địa bàn Chơn Thành và toàn bộ vùng Đồng Nai, Sông Bé lúc đó thuộc tỉnh Biên Hòa.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và chia Nam Kỳ thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xắc, trong đó khu vực Sài Gòn lại được chia thành các tiểu khu; vùng đất phía Tây và Nam sông Sài Gòn (trong đó có Chơn Thành) thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một (năm 1889, thực dân Pháp đổi tiểu khu Thủ Dầu Một thành tỉnh Thủ Dầu Một).
Đầu thế kỷ XX, vùng đất Chơn Thành nằm trong quận Hớn Quản tỉnh Thủ Dầu Một. Chơn Thành lúc này có 4 làng người Kinh (gồm Tân Lập Phú, Tân Quan, Tân Khai, Tân Thạnh nằm trong tổng Tân Minh do tổng Hiển làm Tổng trưởng) và một số phum, sóc dân tộc thiểu số (nằm trong tổng Lâm Can ở phía Tây do tổng Mé làm Tổng trưởng). Địa giới hành chính này duy trì đến sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và thời kỳ đầu chính quyền Ngô Đình Diệm.
Về phía cách mạng, năm 1951, sát nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên, Chơn Thành thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Biên.
Tháng 10-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm cho tách một số vùng ở phía Bắc của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa để lập hai tỉnh mới là Bình Long và Phước Long. Tỉnh Bình Long được thành lập theo Sắc lệnh số 143/NV (ngày 22-10-1956) gồm ba quận: An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành. Như vậy, với việc thành lập tỉnh Bình Long, địa danh Chơn Thành xuất hiện với quy mô hành chính cấp quận (tuy nhiên, đến ngày 27-1-1964, quận Chơn Thành mới chính thức được ra đời).
Tháng 10-1961, để phù hợp với tình hình chỉ đạo địa bàn hoạt động tương ứng với phân chia hành chính của chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam cho tách Bình Long khỏi tỉnh Thủ Biên để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Bình Long gồm 3 quận có phiên hiệu theo số là: C45 – Chơn Thành, C55 – Hớn Quản và C65 – Lộc Ninh.
Ngày 30-1-1971, do yêu cầu chỉ đạo kháng chiến, Trung ương Cục giải thể khu 10, thành lập Phân khu Bình Phước gồm hai tỉnh Bình Long và Phước Long. Cuối năm 1972, lại giải thể Phân khu Bình Phước và thành lập tỉnh Bình Phước. Quận Chơn Thành (C45) thuộc phân khu Bình Phước (từ năm 1972 là tỉnh Bình Phước), gồm các xã cũ là Hưng Long, Minh Thạnh, Minh Hòa, Nha Bích, Tân Quan, Tân Khai…
Sau ngày giải phóng miền Nam, địa giới hành chính cũ được duy trì. Nhưng đến đầu năm 1977, theo Nghị định 55/CP ký ngày 11-3-1977 về việc hợp nhất 3 quận An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành thành huyện Bình Long. Chơn Thành trở thành một phần của huyện Bình Long, một huyện khá lớn nằm sát biên giới, ở phía Bắc tỉnh Sông Bé.
Tháng 3-1978, theo Nghị định 34/CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký ngày 9-2-1978, lại tách thị trấn Lộc Ninh và một số xã phía Bắc sát biên giới để thành lập huyện Lộc Ninh. Huyện Bình Long còn lại (trong đó có Chơn Thành) vẫn là huyện lớn của tỉnh Sông Bé, gồm 19 xã và 02 thị trấn (Chơn Thành và An Lộc).
Đầu năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2003/NĐ-CP ngày 20-2-2003, về việc thành lập huyện Chơn Thành và Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước (tỉnh Bình Phước tổ chức Lễ công bố vào ngày 2-5-2003). Theo Nghị định này, huyện Chơn Thành mới được thành lập gồm 7 xã (Minh Long, Minh Thành, Tân Quan, Nha Bích, Minh Lập, Minh Thắng, Minh Hưng) và thị trấn Chơn Thành.
Giữa năm 2005, theo Nghị định số 60/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Thành Tâm (tách ra từ thị trấn Chơn Thành).
Ngày 10/4/2009, Chính phủ đã ban hành nghị định số 14/NĐ-CP, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Quang Minh (được tách ra từ xã Tân Quan nay thuộc huyện Hớn Quản). Hiện nay, huyện Chơn Thành có 8 xã và 1 thị trấn.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Chơn Thành từ một vùng đất hoang vu, được khai phá và trở thành nơi có những lớp người đến sinh sống, hình thành cộng đồng xã hội, có những truyền thuyết thấm đượm tình người.
Sự hình thành đơn vị hành chính và những thay đổi địa giới hành chính qua các thời kỳ, chứng tỏ Chơn Thành có vị trí quan trọng trong kháng chiến, cũng như trong quá trình thực hiện những chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ an ninh đất nước trong thời kỳ hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
2. Vị trí địa lý và địa giới hành chính:
a) Vị trí địa lý:
Huyện Chơn Thành nằm ở phía Tây của tỉnh Bình Phước, với vị trí chiến lược là cửa ngõ phía Nam của tỉnh Bình Phước, là nơi giao cắt các tuyến Quốc lộ 13, 14, giáp ranh với tỉnh Bình Dương, cách trung tâm thành phố Đồng Xoài 35km, cách thành phố Thủ Dầu Một 55km, Trung tâm Tp. HCM 80km, Chơn Thành hội tụ nhiều điều khiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt về lĩnh vực công nghiệp, đô thị.
b) Địa giới hành chính huyện Chơn Thành
– Phía Bắc giáp huyện Hớn Quản
– Phía Tây giáp huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
– Phía Đông giáp thành phố Đồng Xoài, huyện Đồng Phú vá huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.
– Phía Nam giáp huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
3. Điều kiện tự nhiên:
Huyện Chơn Thành có diện tích tự nhiên 390,34 km2. Là huyện trung du, địa hình Chơn Thành thoai thoải, độ cao trung bình từ 50 đến 55m. Vùng đất đỏ bazan ở phía Đông Bắc, vùng tiếp giáp với địa hình đồi núi lượn sóng của huyện Hớn Quản có độ cao 70m. Còn lại là vùng đất xám phát triển trên phù sa cổ có địa hình thấp, độ cao so với mực nước biển khoảng 50m, thấp nhất là 45m. Đất xám chiếm hơn 87% diện tích, đất đỏ 10%, đất dốc tụ và đất sông suối ao hồ chiếm phần còn lại.
Nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt ở Chơn Thành được cung cấp bởi nguồn nước ngầm và hàng chục dòng suối lớn nhỏ chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam thuận tiện cho việc sản xuất, canh tác và chăn nuôi.
Chơn Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ với hai mùa mưa và khô rõ rệt (mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau). Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao từ 2.000 – 3.000 mm/năm. Hướng gió chính là hướng Đông Bắc vào mùa khô và hướng Tây Nam vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình khoảng 26oC, nhưng có sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm từ 7 – 9oC. Biên độ chênh lệch này thuận lợi cho việc tăng năng suất cây trồng, vật nuôi trên địa bàn.
4. Dân số, lao động
a) Quy mô và mật độ dân số huyện Chơn Thành
– Năm 2020, dân số toàn huyện Chơn Thành là 111.056 người. Trong đó: Dân số thường trú là 94.822 người, dân số tạm trú quy đổi là 16.234 người; mật độ dân số thường trú là 243 người/km2. Mật độ dân số không đều, dân cư có xu hướng quy tụ về các khu vực phát triển thuận lợi như thị trấn Chơn Thành và các xã dọc Quốc lộ 13, 14 như: Minh Hưng, Thành Tâm, Minh Thành.
– Tỷ lệ tăng dân số năm 2018 là 2,46% (trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,99%, tăng dân số cơ học là 1,47%); năm 2019 là 2,01% (trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,93%, tăng dân số cơ học là 1,08%); năm 2020 là 2,99% (trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,08%, tăng dân số cơ học là 1,91%).
b) Lao động
– Tổng số người trong độ tuổi lao động năm 2020 là 78.009 người, chiếm 70,24% dân số toàn huyện. Trong đó, lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 76.021 người, chiếm 97,45% tổng số lao động toàn huyện; lao động phi nông nghiệp toàn huyện là 53.387 người, chiếm 70,23%. Tỷ lệ lao động khu vực nông – lâm – ngư nghiệp giảm khoảng 5%/năm trong giai đoạn 2013-2022.
– Lao động khu vực nội thị là 58.985 người, trong đó: Lao động phi nông nghiệp khu vực nội thị là 47.943 người, chiếm tỷ lệ 81,28%.
5.Dân tộc, tôn giáo:
a) Về dân tộc
– Cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện Chơn Thành gồm 25 dân tộc anh em như: Kinh, STiêng, Khơme, Tàmun, Châu Ro, Hoa… trong có các dân tộc thiểu số chiếm khoảng hơn 8% dân số.
b) Về tôn giáo:
Trên địa bàn huyện có hơn 30 cơ sở thờ tự, có ba tôn giáo chính là Công giáo (chiếm hơn 10% dân số), Phật giáo (chiếm khoảng 3% dân số), Tin Lành (chiếm khoảng gần 4% dân số). Ngoài ra còn một số ít người theo các tôn giáo khác.
Lao động trên địa bàn huyện chủ yếu là lao động phi nông nghiệp. Các cơ sở sản xuất công nghiệp và xây dựng, dịch vụ tập trung ở các khu công nghiệp Minh Hưng – Hàn Quốc, Minh Hưng III, Chơn Thành I, II. Khu công nghiệp Becamex – Bình Phước, Khu đô thị dịch vụ Becamex – Bình Phước với số lượng lớn lao động phi nông nghiệp.
*
Được sự quan tâm của Tỉnh ủy – HĐND – UBND tỉnh, Đảng bộ và chính quyền, nhân dân huyện Chơn Thành quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Chơn Thành nhiệm kỳ 2020-2025, đoàn kết chung sức thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, thi đua xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, thu nhập người dân, hướng đến thành lập thị xã Chơn Thành trong nhiệm kỳ 2020-2025./.