GIÁO TRÌNH NỘI BỘ QUẢN LÝ MT & PTBV | Tiến sĩ Nguyễn Thu Thùy
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Môi trường ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng, gây tổn thương cho con người đang sống ở hiện tại và các thế hệ tương lai – buộc chúng ta phải xem xét lại thước đo của sự phát triển. Cần phải tính đến lợi ích của những cộng đồng không được hưởng lợi hoặc hưởng lợi quá ít từ sự tăng trưởng, đến lợi ích của thế hệ mai sau, đến chi phí cần phải sử dụng để đền bù thiệt hại về môi trường hoặc để cải thiện môi trường. Việc tính toán chi phí môi trường gộp vào chi phí phát triển đã dẫn đến một khái niệm mới, đó là phát triển bền vững (PTBV).
Khái niệm phát triển bền vững được Uỷ ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) thông qua năm 1987 là: “Sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng làm thảo mãn nhu cầu của chính các thế hệ mai sau”. Định nghĩa này được nhiều người tán đồng vì nó mang tính khái quát hóa cao mối quan hệ giữa các thế hệ và thỏa mãn các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần, từ đó tạo ra PTBV; vì suy cho cùng, bản chất của PTBV tức là sự tồn tại bền vững của loài người trên Trái Đất, không phân biệt quốc gia, dân tộc và trình độ kinh tế – xã hội. Ở đây, sự tồn tại của loài người luôn gắn với sự tồn tại của môi trường kinh tế, xã hội và tự nhiên mà con người cần phải có.
Tuy nhiên, định nghĩa này thiên về mục tiêu, yêu cầu cho phát triển bền vững, mà chưa nói đến bản chất mối quan hệ nội tại của quá trình PTBV là thế nào.
Cho đến nay, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng hầu hết đều công nhận phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà giữa các mục tiêu tăng trường kinh tế với các mục tiêu xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển bền vững còn bao hàm cả khía cạnh phát triển trong sự quản lý tốt các xung đột môi trường.
PTBV không chỉ là cách phát triển có tính đến chi phí môi trường, mà thực ra là một lối sống mới. Ngoài ra, “Chiến lược cho cuộc sống bền vững – Hãy cứu lấy Trái Đất” IUCN – UNEP – WWF, 1991 đã chỉ ra rằng: Sự bền vững trong cuộc sống của một dân tộc phụ thuộc vào việc hoà hợp với các dân tộc khác và với giới tự nhiên. Do đó, nhân loại không thể bòn rút được gì hơn ngoài khả năng thiên nhiên có thể cung cấp, và cần phải áp dụng một kiểu sống mới trong giới hạn thiên nhiên cho phép.
Với một định nghĩa mạch lạc và ngắn gọn như trên, chiến lược PTBV có thể dễ dàng được chấp nhận, tuy nhiên, chỉ khi triển khai chiến lược này trong phát triển kinh tế xã hội mới thấy cực kỳ khó khăn. Viện Quốc tế về Môi trường và Phát triển (International Institute for Environmental & Development – IIED), cho rằng PTBV gồm 3 hệ thống phụ thuộc lẫn nhau (Hình 1.1).
Hình .1. Phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp thỏa hiệp
giữa các hệ thống kinh tế, tự nhiên, và xã hội (IIED, 1995)
Tổ chức ngân hàng phát triển Châu Á cũng đưa ra định nghĩa cụ thể về PTBV như sau: “PTBV là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo vệ tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. PTBV cần phải đáp ứng các nhu câu của thế hệ hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai”. Theo định nghĩa này thì PTBV là phát triển tạo nên một nền kinh tế tăng trưởng đều cả về lượng và chất, một xã hội ổn định; các nguồn tài nguyên, sinh thái, môi trường được bảo tồn. Tham khảo định nghĩa PTBV của VN (Luật BVMT, 2014).
1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÁI NIÊM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.2.1. Nhân loại tìm kiếm
Phát triển là quá trình tăng trưởng gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa, v.v. Phát triển kinh tế vừa là phương thức, vừa là điều kiện cơ bản để đạt tới cuộc sống tốt đẹp hơn của các dân tộc trên khắp thế giới. Mục tiêu của PTBV là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của loài người; làm cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên; tạo lập nên cuộc sống công bằng và bình đẳng giữa các thành viên. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài người ta đặt mục tiêu kinh tế quá cao, xem sự tăng trưởng kinh tế là thước đo duy nhất của sự phát triển. Lịch sử xã hội đã chứng minh điều đó: Vào đầu thế kỷ XX, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đã mang lại năng suất lao động cao, của cải vật chất làm ra ngày càng nhiều, phần nào đã đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân loại. Song cũng chính từ sự phát triển ấy, con người đã khai thác nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn, trong quá trình sản xuất và tiêu dùng tạo ra nhiều chất thải hơn, v.v. Những tác nhân ấy đã làm cho môi trường sinh thái dần bị cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm, nhiều cảnh quan bị hủy hoại, chất lượng sống của con người cũng từ đó bị giảm sút. Đứng trước thực tiễn nghiệt ngã này, loài người đã nhận thức được rằng: Độ đo kinh tế không phản ánh được đầy đủ quan niệm về sự phát triển. Do vậy, phải xem xét lại và đánh giá đúng đắn các mối quan hệ: con người – Trái đất, phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Tài nguyên của Trái đất không phải là vô tận, không thể khai thác hoặc thống trị theo ý mình; khả năng đồng hóa các chất thải của môi trường là có giới hạn; cần thiết phải tính toán đến lợi ích chung của cộng đồng, các thế hệ tương lai và các chi phí môi trường cho sự phát triển. Con đường đó chính là sự PTBV. PTBV là một phạm trù khoa học tổng hợp về tự nhiên, kinh tế – xã hội mang tính khách quan, nó tồn tại và biến chuyển đồng thuận với sự phát triển của xã hội loài người, xã hội càng phát triển văn minh thì nội hàm của PTBV càng được quan tâm đầy đủ và đúng hướng.
Năm 1987, trong báo cáo của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển – WCED – của Liên Hợp Quốc, khái niệm PTBV mới được sử dụng một cách chính thức trên quy mô quốc tế và được định nghĩa như sau: “PTBV là sự phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng yêu cầu cảu các thế hệ mai sau”. Nói cách khác, đó là sự phát triển hài hòa cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người.
Nhân loại đã trải qua quá trình tiến hóa và phát triển, từ xã hội nguyên thủy, nông nghiệp, công nghiệp đến xã hội hậu công nghiệp hiện nay. Qua các thời kỳ thăng trầm của lịch sử, các nền văn minh đã dâng hiến cho loài người khối lượng khổng lồ về của cải, vật chất và tri thức. Song hành với thành tựu huy hoàng đó, con người không phải ngay lập tức đã nhận thức được những nguy cơ hủy diệt tiềm ẩn trong quá trình phát triển. Xung đột giữa con người với thế giới tự nhiên ngày càng gia tăng và trở nên gay gắt, thế giới đối mặt với rác thải khắp nơi, nhiều sông, hồ và khu vực rộng lớn bị ô nhiễm nặng nề, rừng bị tàn phá, đầm lầy bị tháo khô, đời sống của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Tình trạng gia tăng dân số quá nhanh, tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái và cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, đất đai bị thoái hóa, nhiều giống loài động, thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng, nhiều bệnh lạ phát sinh, v.v.
Trước thực tế đó, trước sức ép của các nhà khoa học, nhiều hoạt động trọng đại đã được tiến hành:
* Hội nghị Stockholm năm 1972
Năm 1972, LHQ tổ chức Hội nghị Quốc tế về môi trường – con người ở Stockholm, Thụy Điển. Đây là hội nghị đầu tiên của nhân loại về vấn đề môi trường và phát triển. Hội nghị có 113 đại diện chính phủ tham dự và ra tuyên bố về môi trường – con người gồm 7 điểm và 26 nguyên tắc thể hiện rõ nhận thức “việc bảo vệ và cải thiện môi trường của con người là một vấn đề quan trọng tác động đến hạnh phúc của mọi người và phát triển kinh tế trên toàn thế giới”.
Hội nghị đã ra tuyên bố xác nhận hiện trạng môi trường toàn thế giới đang xấu đi và kêu gọi nhân loại hãy cứu lấy Trái đất – cái nôi của sự sống. Thế giới tỉnh ngộ và bước vào thập niên “Nhận thức về MT” (1972-1982). Tiếp theo từ năm 1982, thế giới bước sang thập niên “Hành động vì môi trường” (1982-1992), cụ thể:
– Môi trường đã bắt đầu được nói đến trong Luật pháp quốc gia và quốc tế
– Số lượng các bộ về môi trường của các quốc gia trên thế giới đã tăng từ 10 trước Hội nghị lên 110 vào năm 1982.
– Thời kỳ sau năm 1972 gia tăng đáng kể các hội nghị và các công ước quốc tế về môi trường như: Công ước về bảo tồn các giống loài đang bị đe dọa, Công ước về kiểm soát và vận chuyển các chất thải độc hại, Công ước về giảm thiểu sự phá hoại tầng ozon, v.v.
* Chiến lược về bảo tồn thế giới của IUCN được xuất bản năm 1980
Chiến lược nhấn mạnh: loài người tồn tại như một bộ phận của thiên nhiên, họ sẽ không có tương lai nếu thiên nhiên và các tài nguyên thiên nhiên không được bảo vệ, đồng thời khẳng định: sự bảo vệ không thể thực hiện nếu như không có phát triển để giảm bớt sự nghèo nàn và bất hạnh của hang trăm triệu con người. Khi nhấn mạnh tính phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo vệ và phát triển, lần đầu tiên chiến lược cho lưu hành thuật ngữ “sự phát triển bền vững”. Sự phát triển bền vững phụ thuộc vào việc cứu lấy trái đất. Chiến lược bảo vệ toàn cầu bao gồm 3 mục tiêu chính phù hợp với tiêu chí của phát triển bền vững. Đó là:
– Duy trì các hệ sinh thái cơ bản, đảm bảo cuộc sống nhân loại;
– Bảo tồn tính đa dạng sinh học
– Sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên
Hai năm sau đó (1982), mối quan hệ giữa bảo tồn các hệ sinh thái và phát triển kinh tế mới bắt đầu được thừa nhận trên bình diện quốc tế. Đặc biệt, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và các vấn đề môi trường, tài nguyên được đưa ra tranh luận ngày càng rõ.
* Hình thành khái niệm phát triển bền vững năm 1987
Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển đã công bố báo cáo “Tương lai của chúng ta” và phân tích mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và phát triển. Theo Gro Harlem Brundtland – Chủ tịch ủy ban: “Môi trường là nơi chúng ta đang sống, phát triển là những gì chúng ta làm để cố gắng cải thiện tất cả mọi thứ ở bên trong nơi chúng ta đang sống, do vậy hai vấn đề này không thể tách rời nhau”. Báo cáo lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về phát triển bền vững là “Sự phát triển để đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của cá thế hệ tương lai”.
Trên phạm vi toàn cầu, nhằm tìm cách đối phó với tình trạng cuộc sống ngày càng xấu đi do sự gia tăng của nghèo khó, đói kém, bệnh tật, thất học, do sự cách biệt ngày càng sâu sắc giữa giàu và nghèo, đặc biệt do sự xuống cấp không ngừng của môi trường, Liên Hợp Quốc đã thành lập Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển vào năm 1983. Sau 4 năm (năm 1987), Hội đồng công bố báo cáo “Tương lai của chúng ta” trong đó cảnh tỉnh loài người phải thay đổi ngay, thay đổi cơ bản về lối sống và phương thức hành động, nếu không sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro và môi trường sẽ bị phá hủy tới mức thảm họa.
Báo cáo “Tương lai của chúng ta” đã tác động mạnh mẽ tới cộng đồng thế giới và vào năm 1989, Liên Hợp Quốc bắt đầu việc chuẩn bị cho các cuộc Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên bàn về môi trường và phát triển. Một quá trình chuẩn bị và thương lượng quốc tế rộng lớn và hữu hiệu chưa từng có đã được mở ra, không phải chỉ nhằm tổ chức riêng hội nghị này mà là tiền đề cho hàng loạt hội nghị mang tính thượng đỉnh khác như Hội nghị thượng đỉnh về trẻ em, các Hội nghị về các phương diện kinh tế, xã hội được Liên Hợp Quốc (LHQ) liên tục tổ chức trong thập niên 90 của thế kỷ trước.
* Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường năm 1992
Tháng 6 năm 1992, tại Rio de Janero, LHQ tổ chức hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển. Hội nghị đã có trên 10.000 đại biểu của 179 quốc gia tham dự, trong đó có 116 nguyên thủ quốc gia và 1.400 tổ chức phi chính phủ (NGO). Hội nghị đã ra tuyên bố gồm 27 nguyên tắc, trong đó có nhiều nguyên tắc được tái khẳng định trong tuyên bố Stockholm 1972. Hai công ước đã được ký kết là: Công ước về đa dạng sinh học và công ước khung về biến đổi khí hậu với quan điểm tiến bộ là “trách nhiệm chung, nhưng có phân biệt”. Tại hội nghị đã thành lập ủy ban phát triển bền vững và đi đến thỏa thuận Công ước chống sa mạc hóa.
Thành công lớn nhất của Hội nghị là soạn thảo và công bố “Chương trình nghị sự 21 – Agenda 21”. Đó là một kế hoạch chi tiết cho phát triển bền vững toàn cầu trong thế kỷ XXI với 4 nội dung chính là:
– Những khía cạnh kinh tế và xã hội của sự phát triển: hợp tác quốc tế, chống đói nghèo, thay đổi cách thức tiêu dung, dân số, sức khỏe.
– Bảo tồn và quản lý tốt các nguồn tài nguyên tự nhiên
– Tăng cường vai trò của các nhóm xã hội
– Những phương thức để triển khai thực hiện: chuyển giao công nghệ, khoa học, giáo dục, thể chế pháp lý quốc tế.
* Sự thừa nhận bước đầu
Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển ở Rio de Janero năm 1972 là cuộc gặp gỡ lớn chưa từng thấy của các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới. 179 quốc gia đã cử người lãnh đạo của mình tới hội nghị, đó là một thành công. Nhưng thành công lớn hơn cả là Rio – 92 đã đưa ra được 2 tuyên bố mang tính nguyên tắc, ký kết 2 công ước quốc tế và thông qua Chương trình hành động 21. Bằng những văn kiện này, cộng đồng quốc tế đã bắt đầu chính thức thừa nhận con đường đi lên phải là con đường phát triển bền vững. Rio-92 là một tầm nhìn bao quát, một bản đồ chỉ đường. Nhiều hứa hẹn đã được đưa ra và nhân loại chờ đợi những kết quả ban đàu về giải quyết các vấn đề môi trường và phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, 10 năm tiếp sau (Rio +10) là 10 năm thoái trào, đặc biệt đối với viện trợ ODA đã rất được kỳ vọng trước đó. Khoảng cách giàu, nghèo giữa các nước phương Bắc và các nước phương Nam, giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng thêm, hố ngăn cách ngày càng sâu, số người không được hưởng nước sạch tăng lên, chỉ có 2/7 tỷ người được tiếp cận năng lượng. Tổng thống Nam Phi Thabo Mbeki đã mô tả thế giới 10 năm sau Rio như là một hình thức “Chủ nghĩa Apacthai trên toàn cầu”. Hội nghị thượng đỉnh thiên niên kỷ về phát triển bền vững hay Rio-92+10 đã họp tháng 6/2002 tại Johannesburg, Nam Phi, tại đây, đại diện của 196 quốc gia đã thể hiện tính đồng thuận hành động vì quá trình phát triển bền vững của nhân loại và thông qua văn bản rất quan trọng: Kế hoạch thực hiện Johannesburg. Từ kế hoạch hành động cho đến kế hoạch thực hiện, từ tấm bản đồ chỉ đường (Rio-92) đến lịch trình cụ thể (Johan-02), loài người đã thừa nhận và bước những bước đầu tiên trên con đường phát triển bền vững. Các quốc gia dù có những điều kiện kinh tế – xã hội khác nhau, bắt đầu nhanh hay chậm đều đang hướng theo con đường phát triển bền vững này.
Nhìn chung, các hội nghị trên đều khẳng định sự nhất trí cao của thế giới trong vấn đề phát triển bền vững, thể hiện ở chỗ:
– Tại hội nghị Stockholm, đại biểu của các Quốc gia mới bắt đầu bàn tới vấn đề môi trường, đưa ra những quan điểm, nguyên tắc chung nhằm tạo ra tình cảm và hướng mọi dân tộc trên thế giới vào quá trình gìn giữ làm cho môi trường sống tốt đẹp hơn, khẳng định việc bảo vệ và cải thiện môi trường là một vấn đề lớn ảnh hưởng đến phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế. Đó là sự mong muốn và ước vọng của tất cả các dân tộc trên thế giới. Để làm được vấn đề này đòi hỏi sự đồng thuận và nhất trí cao của tất cả các quốc gia.
– Tại Rio-92, nhân loại đã tiến thêm một bước dài trong nhận thức. Các văn kiện không chỉ nhấn mạnh quyền lợi mà còn chỉ rõ trách nhiệm của các quốc gia đối với môi trường trong quá trình phát triển kinh tế. Chương trình nghị sự 21 tiếp tục cụ thể hóa những quan điểm, nguyên tắc của tuyên bố Rio-92. Đó là:
+ Nhấn mạnh nội dung phát triển bền vững phải đảm bảo phát triển kinh tế hài hòa ở cả 3 lĩnh vực: kinh tế, xã hội và môi trường. Trong đó, tính bền vững về kinh tế được thể hiện ở sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, nhất là tình trạng nợ nần chồng chất mà nhiều nước đang phát triển gặp phải. Tính bền vững về xã hội thể hiện ở mức độ đảm bảo sự công bằng xã hội, bình đẳng về giới, có công ăn việc làm, giảm nghèo đói và tiếp cận với giáo dục. Tính bền vững về môi trường thể hiện ở việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm và cải thiện môi trường.
+ Rio-92 yêu cầu tất cả các quốc gia trên thế giới phải áp dụng một chiến lược cấp quốc gia hướng tới phát triển bền vững, nhằm tập hợp và cân đối nhiều chính sách và kế hoạch trong phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.
* Hội nghị thưởng đỉnh về phát triển bền vững năm 2002
Hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững tại Johannesburg (Rio + 10) đã kêu gọi tất cả các quốc gia phải xúc tiến việc hình thành và cụ thể hóa các Chiến lược phục vụ phát triển bền vững và bắt đầu thực thi các Chiến lược đó vào năm 2005.
1.2.2. Mối quan hệ giữa nghèo đói và PTBV
Tuyên bố của hội nghị Rio de Janeiro đã khẳng định: “xóa bỏ nghèo nàn là yêu cầu không thể thiếu của PTBV”. Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Bắc Cốc tháng 9/2013 đã đưa ra định nghĩa chung về đói nghèo như sau: “Nghèo là thực trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển KT – XH và phong tục tập quán của địa phương”. Ở nước ta, mặc dù suốt trong 2 thập kỷ, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, tăng trưởng kinh tế đã đạt ở mức cao (trung bình 7,5%/năm), cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, song Việt Nam hiện vẫn là một nước nghèo, phần lớn dân cư sinh sống ở nông thôn và chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Đa số các nước hộ nghèo, người nghèo là ở các vùng nông thôn, và tỷ lệ nghèo ở khu vực này vẫn ở mức khá cao, nhất là những vùng nông thôn vùng núi, vùng cao, nơi có điều kiện sản xuất khó khăn,…
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về nghèo khổ. Định nghĩa được nhiều người chấp nhận và thường được sử dụng khá phổ biến hiện nay là định nghĩa đã được đưa ra tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, 1993. Còn “nghèo khổ cùng cực” được hiểu là “một điều kiện sống bị hạn chế bởi suy dinh dưỡng, mù chữ, bệnh tật, môi trường ô nhiễm, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao, tuổi thọ thấp” (Robert Maramara, 2004), v.v.
Liên quan đến nghèo khổ, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng các chỉ tiêu, các chuẩn nghèo sau:
* Chỉ tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình
Là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ gia đình và các thành viên trong đó đã chi cho tiêu dùng bình quân/người trong một thời gian nhất định. Chỉ tiêu bình quân một người một tháng của hộ gia đình được tính theo công thức sau:
Chỉ tiêu bình quân 1 người/ tháng =
Tổng chi tiêu của hộ gia đình trong tháng
Số thành viên của hộ trong tháng
Đường nghèo khổ là mức thu nhập (hoặc chi tiêu) bình quân đầu người được dùng làm tiêu chuẩn để xác định người nghèo hoặc hộ nghèo. Những người hoặc hộ có thu nhập (hoặc chi tiêu) bình quân đầu người thấp hơn đường nghèo khổ còn được gọi là chuẩn nghèo hoặc ngưỡng nghèo. Các nước thường sử dụng hai chuẩn nghèo: chuẩn thấp và chuẩn cao.
Chuẩn nghèo thấp: (chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm) để xác định những đối tượng nghèo nhất nhằm tập trung nguồn lực của quốc gia giúp họ thoát nghèo. Chuẩn nghèo thấp thường được xác định bằng trị giá của một giỏ lương thự và thực phẩm thiết yếu đảm bảo khẩu phần ăn duy trì với nhiệt lượng tiêu dùng 1 người/ ngày là 2.100 kcal.
Chuẩn nghèo cao (chuẩn nghèo chung) dùng làm mục tiêu phấn đấu trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, để so sánh quốc tế và được xác định bằng chuẩn nghèo thấp cộng với mức chi tối thiểu các mặt hang phi lương thực, thực phẩm, gồm nhà ở, quần áo, đồ dùng gia đình, học tập, văn hóa, giải trí, y tế, đi lại, thông tin liên lạc, v.v.
* Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
Là phần trăm số hộ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm, được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm theo kỳ (%)
=
Tổng hộ nghèo lương thực
x 100
Số thành viên của hộ trong tháng
Tỷ lệ nghèo chung là phần trăm số người có mức chi tiêu bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo chung, được tính theo công thức:
Tỷ lệ nghèo chung trong kỳ (%)
=
Tổng người nghèo chung kỳ
x 100
Tổng dân số trong kỳ
Để xác định nghèo và tình trạng nghèo, người ta đã đưa ra những tiêu chí khác nhau căn cứ vào mức thu nhập hoặc chỉ tiêu (tiêu dung) và các tiêu chí khác (nhà ở, đồ dung, chi phí cho các dịch vụ cơ bản, v.v.). Ví dụ, Tổng cục Thống kê xác định chuẩn nghèo dựa vào các tiêu chí về chi tiêu (tiêu dùng) của hộ gia đình và xác định chuẩn nghèo ở 2 cấp độ: nghèo nói chung và nghèo về lương thực thực phẩm. Nghèo về lương thực là những hộ có mức tiêu chí cho một giỏ tiêu dung gồm lương thực và thực phẩm không đảm bảo được 2.100 kcal cho 1 người/ ngày; nghèo nói chung là những hộ nghèo về lương thực, thực phẩm, đồng thời thiếu các chỉ tiêu tối thiểu cho các mặt hang phi lương thực, thực phẩm và các nhu cầu cơ bản khác (như nhà ở, đồ dùng, cho giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe, .v.v). Năm 2005, Chính phủ Việt Nam quy định chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006-2010 với mức thu nhập dưới 200.000 đồng/người/tháng ở nông thon và dưới 260.000 đồng/người/tháng ở thành thị là hộ nghèo. Tuy nhiên, do tình hình lạm phát và khủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2008, mức chuẩn nghèo lại được Chính phủ điều chỉnh tương ứng là thu nhập dưới 300.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và dưới 390.000 đồng/người/tháng ở thành thị là hộ nghèo. Theo thống kê, tỷ lệ chênh lệch giàu nghèo ở nước ta hiện nay là 6,28 lần.
Quan hệ giữa nghèo khổ và môi trường gồm các mặt sau đây:
– Nghèo khổ làm cho các cộng đồng nghèo dễ bị phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên mỏng manh của địa phương trở nên dễ bị tổn thương do những biến động của thiên nhiên và xã hội.
– Nghèo dẫn đến thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, cho cơ sở hạ tầng, cho văn hóa, giáo dục và các dự án cải tạo môi trường.
– Nghèo khổ làm gia tăng tốc độ khai thác tài nguyên theo hướng khai thác quá mức, khai thác hủy diệt.
– Nghèo khổ là mảnh đất lý tưởng cho mô hình phát triển chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế và xây dựng một xã hội tiêu thụ.
– Nghèo khổ góp phần làm bùng nổ dân số. Bởi vì nghèo đói ảnh hưởng đến giáo dục nên ảnh hưởng đến năng lực của con người, hạn chế năng lực của người nghèo và gia tăng dân số. Nghèo đói lại tác động xấu đến môi trường và tình trạng xấu đi về môi trường lại làm trầm trọng thêm về nghèo đói ở nông thôn.
Năm 2002, UNDP xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia dẫn đầu về phát triển và xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,5% năm 2001 xuống dưới 7% năm 2005 (theo chuẩn nghèo cũ). Theo chuẩn nghèo mới, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 23% năm 2002 xuống 18,1% năm 2004, Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 14,2%. Các năm sau đó, tỷ lệ này đều giảm dần: năm 2011 giảm còn 11,76%; năm 2012 giảm còn 9,6%; năm 2013 giảm còn 7,8%; năm 2014 giảm còn 5,97%. Năm 2015, ước tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 5% theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015.Như vậy, nhờ thực hiện tốt các chính sách xóa đói giảm nghèo mà không những rút ngắn dần khoảng cách về phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền dân cư trong cả nước mà còn mang lại nhiều hiệu quả tích cực khác như:
– Chính sách xóa đói giảm nghèo (XĐGN) góp phần tạo điều kiện cho những người thu nhập thấp có cơ hội tham gia phát triển kinh tế, nâng cao năng lực tự vươn lên để XĐGN và có cơ hội hưởng thụ các dịch vụ công hiệu quả nhất. Trên cơ sở đó góp phần thực hiện công bằng xã hội và thúc đẩy phân hóa xã hội theo hướng tích cực.
– Chính sách XĐGN đã tạo điều kiện và góp phần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nòng cốt để phát triển kinh tế – xã hội ở những vùng sâu, vùng xã, vùng căn cứ cách mạng. Sau hơn 20 năm, Nhà nước đã tổ chức hang trăm lớp tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng căn cứ cách mạng. Họ là những hạt nhân để lãnh đạo các chương trình kinh tế – xã hội ở những vùng khó khăn này.
– Chính sách XĐGN đã góp phần quan trọng vào xây dựng kết cấu hạ tầng ở những nơi khó khăn, tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giữa các vùng về phát triển giao thong, lien lạc, y tế, giáo dục.
– Chính sách XĐGN góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững – cơ sở quan trọng để phân hóa xã hội diễn ra theo hướng tích cực, góp phần trực tiếp vào giảm thiểu việc hủy hoại môi trường tự nhiên, ngăn chặn sự xuống cấp của đạo đức, nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho nhân dân, tạo cho con em những nơi khó khăn cơ hội học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, cơ hội kiếm việc làm và khả năng thể hiện mình.
– Chính sách XĐGN góp phần ổn định tỷ lê tăng trưởng dân số, phù hợp với tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng dân số, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nhóm dân cư đông con với nhóm dân cư ít con. Dân số được thể hiện ở 2 góc độ cơ bản là số lượng và chất lượng. Số lượng chỉ tính định lượng về dân số của một quốc gia, mật độ dân cư trên số km2 đất. Thực tế cho thấy, những nhóm dân cư nghèo thường đông con hơn những nhóm dân cư có thu nhập cao. Đông con thường góp phần gia tăng nghèo đói, kém phát triển. Do đó, khoảng cách về chênh lệch phát triển là tất yếu. Điều này sẽ làm cho phân hóa xã hội diễn ra theo hướng tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Mặt chất lượng của dân số nói lên tính chất định tính của dân số như: sức khỏe, thể chất của nhân dân, tuổi thọ bình quân, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, trí tuệ, nhân cách, v.v. Nghèo đói luôn đồng nghĩa với chất lượng dân số thấp. Chất lượng dân số cao sẽ góp phần trực tiếp vào phát triển kinh tế – xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng cũng như giữa các nhóm dân cư khác nhau.
1.2.3. Nguyên nhân của vững trong sự không bền phát triển
Mặc dù có quan niệm khác nhau về lý thuyết và tính tương thích giữa phát triển kinh tế và phát triển bền vững nhưng các nhà kinh tế đều thừa nhận rằng, trên thực tế môi trường đang bị phá hủy nghiêm trọng, cần phải tìm ra căn nguyên của vấn đề để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm duy trì sự phát triển bền vững. Về phương diện kinh tế học, sự phá hủy môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội được quy lại thành 2 nhóm nguyên nhân chính:
– Các chính sách phát triển kinh tế đã coi nhẹ hoặc bỏ qua những cân nhắc về môi trường và xã hội
– Sự thất bại của thị trường trong việc bảo đảm phát triển bền vững.
* Sự bất cập của chính sách kinh tế vĩ mô về bảo vệ môi trường với gia tăng phúc lợi xã hội
Ngày nay, nhiều quốc gia đã thừa nhận rằng, phương thức huy động tối đa các nguồn lực cho tăng trưởng đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển bền vững. Chính sách khuyến khích xuất khẩu là một ví dụ. Hầu hết các nước chậm phát triển đều quan niệm xuất khẩu là một chìa khóa cho sự phát triển và cùng với quan niệm này, hàng loạt các chính sách khuyến khích xuất khẩu đã được áp dụng bất chấp cái giá phải trả cho vấn đề môi trường. Việc khai thác các ngồn tài nguyên rừng, khoáng sản đã được triển khai trên quy mô rộng; các trang trại gia tăng quy mô, diện tích canh tác được mở rộng thông qua việc phá rừng hoặc khai thác cạn kiệt đất đai hiện có. Chất lượng môi trường đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi chính sách này.
Các chính sách trợ cấp phát triển nông nghiệp cũng được coi là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng môi trường bị giảm sút. Ở nhiều quốc gia, các trợ cấp về phân bón, trợ cấp về hóa chất bảo vệ thực vật được áp dụng trên quy mô lớn; kết quả là hai mặt hàng này được cung cấp với giá rẻ và việc sử dụng tùy tiện chúng trong trồng trọt đã trở thành phổ biến. Phân bón tuy có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng, thuốc trừ sâu có tác dụng hạn chế dịch bệnh, nhưng hậu quả môi trường của hai sản phẩm này rất lớn.
Các chính sách công nghiệp hóa cũng có những tác động không tốt đến vấn đề môi trường. Hầu hết các quốc gia khi bước vào tiến trình công nghiệp hóa đều có khả năng tài chính hạn chế, các công nghệ đều là lạc hậu không đảm bảo na toàn cho chất lượng môi trường. Năng lượng sử dụng nhiều làm ô nhiễm không khí, nước thải không được xử lý làm ô nhiễm các thủy vực, v.v. Tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thường diễn ra đồng thời và việc hình thành các đô thị lớn không đi liền với việc xây dựng hạ tầng đã làm cho môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của các đô thị trở nên bị ô nhiễm nặng nề.
Các chính sách kinh tế vĩ mô cũng tác động rất lớn tới các vấn đề xã hội. Ở nhiều quốc gia, sự phát triển kinh tế đã nâng được mức sống trung bình, nhưng tình trạng nghèo đói lại trở nên phổ biến, bất bình đẳng xã hội gia tăng, một số tầng lớp xã hội bị bỏ rơi và lâm vào cảnh bần cùng. Sự tồn tại của một bộ phận khá lớn dân cư sống trong tình trạng nghèo khổ đã làm cho cuộc sống của họ phải lệ thuộc vào các nguồn tài nguyên nguyên thủy. Do nghèo khó, người ta không đủ điều kiện tiếp cận các nguồn năng lượng an toàn như điện, năng lượng măt trời mà phải dung các nguồn nguyên liệu nguyên thủy như than, gỗ, củi. Nghèo khó cũng làm cho họ không có đủ điều kiện tài chính để tổ chức cuộc sống vệ sinh hơn và tình trạng chất thải được xả thải bừa bãi ra môi trường. Như vậy, phát triển bền vững phụ thuộc mạnh mẽ vào việc XĐGN và công bằng xã hội. Chỉ khi nào người nghèo được tiếp cận các cơ hội phát triển, cơ hội nâng cao thu nhập thì lúc đó môi trường mới được bảo vệ tốt hơn, các giải pháp bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường mới có thể thực thi hiệu quả.
* Khủng hoảng kinh tế và sự giảm sút chất lượng môi trường
Suy thoái hay khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng của kinh tế thị trường. Khi điều đó xảy ra, hậu quả đem lại không chỉ là sự giảm sút tăng trưởng kinh tế, mà còn giảm sút nghiêm trọng về môi trường tự nhiên và các điều kiện xã hội. Dẫn chứng gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á cách đây hơn một thập kỷ. Khi suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế nổ ra, cân bằng tài chính bị đảo lộn, lạm phát gia tăng, ngân sách thâm hụt và đồng tiền mất giá, v.v. buộc các chính phủ phải cắt giảm chi tiêu mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là bảo vệ môi trường và trợ cấp xã hội. Bên cạnh đó, để khôi phục nền kinh tế thì việc khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu luôn là những biện pháp được lựa chọn, ưu tiên; việc nới lỏng các điều kiện, ràng buộc về môi trường là một yếu tố tất yếu khách quan.
* Sự thất bại của thị trường trong bảo vệ môi trường và các vấn đề xã hội
Theo đánh giá của Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam (2006), nhân loại đã chứng kiến sự xuống cấp của môi trường, xã hội không chỉ trong điều kiện kinh tế suy thoái, mà cả khi nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng tốt. Ô nhiễm môi trường, thiên tai, lũ lụt không chỉ xảy ra ở những nước kém phát triển mà ở cả những nước phát triển – nơi có mức thu nhập cao. Như vậy, sự xuống cấp của môi trường, xã hội trong điều kiện suy thoái kinh tế cũng chỉ là một phần của vấn đề.
Những hậu quả gần đây về chất lượng môi trường không phải là do chủ quan hoặc sự vô tình của con người. Theo các nhà kinh tế, đó là do sự thất bại của thị trường trong việc bảo vệ môi trường, do không bao hàm chi phí ngoại sinh vào chi phí sản xuất. Chi phí ngoại sinh là chi phí mà người sản xuất không phải chịu, mặc dù xã hội vẫn phải trả giá cho nó. Khi có một khoản chi phí mà người sản xuất không phải tính đến trong quá trình sản xuất thì thông thường chi phí đó được sử dụng mang tính chất lạm dụng quá mức. Kinh tế học coi đây là một dạng thất bại của thị trường, cái mà đã không hoạt động có hiệu quả để đảm bảo chi phí sản xuất cân bằng với giá trị đầu ra; vì sự thất bại của thị trường trong việc điều tiết này đã dẫn đến môi trường tự nhiên bị phá hủy. Ví dụ, một nhà máy sản xuất giấy nằm ở thượng nguồn của một con song, trong quá trình sản xuất, nhà máy này đã sử dụng nhiều hóa chất và chất thải của quá trình sản xuất đã làm ô nhiễm nước ở phía hạ lưu. Chi phí để khôi phục chất lượng nguồn nước ở phía hạ lưu lại do người ở hạ lưu chịu chứ không phải do người sản xuất giấy chịu. Chính vì không phải chịu chi phí này, nên người sản xuất giấy sẵn sàng sử dụng và xả các loại hóa chất ra dòng sông và hủy hoại môi trường dưới hạ lưu.
Sự thất bại của thị trường trong phát triển bền vững cũng được hiểu là tình trạng thiếu hoặc không có thị trường. Thị trường gần như không hoạt động trong vấn đề bảo vệ môi trường, hoặc nếu có thì đó là những thị trường không hoàn thiện. Sự thực là không tồn tại cơ chế lợi ích khuyến khích các cá nhân, các công ty tham gia kinh doanh bảo vệ môi trường. Môi trường trong nền kinh tế học được hiểu là một loại hàng hóa công cộng, một loại hàng hóa mà tất cả mọi người đều có quyền tiếp cận và sử dụng. Khó khăn trong việc quản lý hàng hóa công cộng là làm thế nào người tiêu dùng trả tiền cho hàng hóa này vì người tiêu dùng luôn có tâm lý sử dụng miễn phí đối với các hàng hóa công cộng. Không có cơ chế lợi ích rõ ràng, thị trường bảo vệ môi trường luôn là một thị trường kém phát triển và không hoàn thiện, ít người sẵn sang tham gia cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường.
1.3. MUC TIÊU, NGUYÊN TẮC, NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001-2010 là “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao”.
Quan điểm phát triển trong chiến lược trên được khẳng định “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với cải thiện và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
1.3.1.1. Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường và PTBV
Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất (The Earth Summit) họp tại Rio deJaneiro Brazin – tháng 6/1992 – là một sự kiện lớn mang ý nghĩa Toàn cầu và của thế kỷ XX. Tại đây đã hội tụ những người đứng đầu và đại diện của 179 quốc gia, để bàn về các chính sách môi trường và phát triển của Trái Đất. Cùng tham gia còn có hàng trăm các quan chức khác từ các tổ chức Liên Hiệp Quốc, các chính quyền thành phố, các tổ chức kinh doanh và khoa học, các tổ chức phi chính phủ, và nhiều nhóm khác.
Rio đã đưa ra hai bản thoả thuận mang tính quốc tế, hai bản tuyên bố những nguyên tắc và một chương trình hành động lớn về sự PTBV. Năm tài liệu đó là:
1. Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển – 27 nguyên tắc – đã xác định các quyền và trách nhiệm của các quốc gia.
2. Chương trình hành động 21 – một xã hội PTBV về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường – trên cơ sở trách nhiệm của mỗi quốc gia và gắn kết bằng sự hợp tác quốc tế.
3. Bản tuyên bố các nguyên tắc là kim chỉ nam cho việc quản lý, bảo vệ và PTBV tất cả các loại rừng có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và duy trì cuộc sống.
4. Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu – nhằm ổn định các khí gây hiệu ứng nhà kính trong khí quyển ở mức không gây đảo lộn nguy hiểm cho hệ thống khí hậu Toàn cầu.
5. Công ước về đa dạng sinh học – đòi hỏi các nước phải áp dụng các phương pháp và phương tiện nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh học, và lợi ích có được từ sử dụng đa dạng sinh học phải được chia xẻ công bằng.
Chương trình Nghị sự thế kỷ 21 – một chương trình hành động có quy mô Toàn cầu – đã xác định kế hoạch hành động cho mỗi quốc gia, nhằm đạt được mục tiêu PTBV, cụ thể tập trung chủ yếu vào: Sử dụng hợp lý tài nguyên và tính bền vững; duy trì đa dạng sinh học và tính bền vững; phương thức tiêu thụ trong PTBV, và vai trò