GIẢI SÁCH BÀI TẬP Lý thuyết tài chính tiền tệ – CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ PHẦN 1: – StuDocu

CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH –

TIỀN TỆ

PHẦN 1: LỰA CHỌN ĐÚNG/SAI VÀ GIẢI THÍCH

  1. Sai

Tiền tệ là bất cứ thứ gì được xã hội chấp nhận chung, để làm phương tiện thanh
toán với hàng hoá, dịch vụ hoặc các khoản phải trả khác.

Tài chính là sự vận động tương đối của các dòng tiền trong nội bộ một chủ thể hoặc
giữa các chủ thể với nhau (gồm có Chính phủ, các trung gian tài chính, doanh
nghiệp, hộ gia đình, các tổ chức quốc tế) nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
một cách tối ưu nhất.

Tóm lại: tiền tệ là một vật cụ thể, còn tài chính là sự vận động của tiền, nên hai
phạm trù này hoàn toàn khác nhau.

  1. Sai

Tính thanh khoản/Tính lỏng của một tài sản là khả năng chuyển đổi tài sản đó
thành tiền mặt (được xét trên hai tiêu chí cơ bản là chi phí về tài chính và chi phí về
thời gian).

Do tính thanh khoản là khả năng quy đổi về tiền mặt nên đây cũng là tài sản có tính
lỏng cao nhất.

  1. Đúng

Lượng tiền cung ứng/Cung tiền (Money Supply – MS) :

M1 = Tiền mặt (tiền giấy + tiền xu) lưu thông ngoài hệ thống NH (1) + Tiền gửi
thanh toán/không kì hạn/có thể viết séc trong NH (2)

M2 = M1 + Tiền gửi tiết kiệm (của cá nhân) + Tiền gửi có kì hạn (của DN) tại các NH

M3 = M2 + Tất cả các loại tiền gửi ở tổ chức tài chính phi NH

L = M3 + Các loại giấy tờ có giá được chấp nhận trong thanh toán.

Xét về tính thanh khoản thì M1 > M2 > M3 > L. Chứng minh:

+) Tiền gửi không kì hạn tại các NHTM có thể được rút ra bất cứ lúc nào-nhanh
chóng chuyển thành tiền mặt, với một lượng tuỳ ý (miễn nằm trong giới hạn số dư),
chi phí thực hiện dịch vụ rất thấp. Trong khi đó với tiền gửi có kì hạn, bạn không thể
rút trước hạn (chi phí thời gian) hoặc nếu muốn thì phải chịu lãi phạt (chi phí tài
chính), do vậy tính thanh khoản kém hơn tiền gửi không kì hạn. Suy ra M1 > M2.

+) Tiền gửi trong hệ thống ngân hàng an toàn hơn tiền gửi tại các trung gian tài
chính khác do NHTM có lượng vốn lớn, danh mục đầu tư đa dạng, hầu như luôn được
Nhà nước quan tâm đặc biệt, khó để cho phá sản. Suy ra M2 > M3.

+) Khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, cuối kì ta luôn nhận được đầy đủ vốn gốc
cộng thêm một khoản tiền lãi (trừ khi tổ chức đó phá sản). Nhưng khi nắm giữ chứng
khoán, giá trị tài sản của ta có sinh lời, thậm chí có bảo tồn được giá trị hay không là
điều không biết trước. Chi phí bán chứng khoán hiện nay rất thấp do sự cạnh tranh
giữa các công ty môi giới, thanh khoản của chứng khoán thấp hơn tiền gửi chủ yếu
bởi khoản lỗ có thể gặp phải khi kinh doanh, mà đây lại là điều rất dễ xảy ra. Suy ra
M3 > M4.

  1. Sai

Lưu ý: Lượng tiền cung ứng chỉ tăng lên trong 2 trường hợp :

 Ngân hàng trung ương in thêm tiền và đưa vào lưu thông
 NHTM cho vay ra nền kinh tế

Với tình huống trong bài ta có 2 trường hợp:

o Trái phiếu được các cá nhân, tổ chức hoặc DN khác mua lại: Tiền chỉ vận động
giữa các đối tượng trong thành tố (1), không ảnh hưởng gì đến (2), suy ra MS
không đổi.
o Trái phiếu được NHTM mua lại (ít gặp trong thực tế), đồng nghĩa với việc ngân
hàng cho DN vay. Từ khoản cấp vốn này, DN có thể đem tiền gửi tại một ngân
hàng khác, làm tăng lượng tiền gửi toàn hệ thống, tức tăng (2) => MS tăng.

Với 2 TH trên thì không thể kết luận một chiều như khẳng định trong sách. Do đó
câu này sai.

  1. Sai

Khi NHTM tăng cường cho vay ra nền kinh tế, tiền được quay vòng nhanh hơn (ra
công chúng rồi lại gửi vào hệ thống ngân hàng), lượng tiền gửi không kì hạn được
tạo ra nhiều hơn nên MS tăng.

  1. Sai

Khi người dân mua cổ phiếu của các công ty chứng khoán, tức đem tiền đầu tư vào
các công ty đó. Tiền chỉ dịch chuyển từ phía các cá nhân, hộ gia đình sang DN, bản
chất chỉ luẩn quẩn trong thành tố (1), không mất đi đâu nên MS không đổi.

  1. Đúng

Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia (USD, VND,
…), một khu vực (EUR) hay một tổ chức quốc tế (SDR), được quy định rõ trong luật.

10

Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong một thời gian dài.
(Milton Friedman)

Giá trị hay sức mua của tiền được tính bằng số nghịch đảo của mức giá chung. Khi
giá cả tăng lên thì một đồng tiền bây giờ mua được ít hàng hoá, dịch vụ hơn trước
hay giá trị của nó giảm xuống.

  1. Lượng tiền cung ứng phụ thuộc vào lượng vàng NHTW nắm giữ. Đây là
    nhân tố khách quan.

PHẦN 2: LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN ĐÚNG VÀ GIẢI THÍCH

  1. Dựa theo định nghĩa về tính thanh khoản ở câu 2, ta dễ dàng chọn được
    đáp án D. Cả A và B
  2. Thứ tự sắp xếp đúng là: 1-3-2-

Tài khoản tiền gửi tiết kiệm còn phải phân ra thành có kì hạn và không kì hạn (ở đây
chưa nói rõ). Nếu có kì hạn thì chỉ được phép rút khi đến hạn, nếu rút trước hạn sẽ
chịu lãi phạt từ ngân hàng. Còn không kì hạn thì dù được rút ra bất cứ lúc nào một
lượng tuỳ ý nằm trong số dư, nhưng vẫn phải mất thời gian, chi phí đi lại để làm thủ
tục ngân hàng, không dễ đem ra sử dụng như tiền mặt khi cần mua sắm được. Do
đó tính thanh khoản của tiền mặt luôn cao hơn tiền gửi tiết kiệm. Cổ phiếu đang
nắm giữ muốn chuyển thành tiền mặt cũng phải mất chi phí môi giới, thời gian tìm
đối tượng mua, thậm chí phải bán lỗ nếu DN phát hành làm ăn kém hiệu quả. Bán
cổ phiếu không hề dễ dàng như việc ta đi rút tiền từ chính tài khoản của mình.
Thanh khoản cổ phiếu thấp hơn tài khoản tiền gửi ngân hàng. Nhưng như vậy vẫn
chưa vất vả bằng việc bán một căn nhà, anh phải bỏ ra nhiều hơn công sức, thời
gian và tiền bạc để đo đạc, định giá, thông qua môi giới BĐS tìm người mua, làm thủ
tục sang tên đổi chủ, chi phí vận chuyển đồ đạc, tìm nhà mới,… Do vậy tính thanh
khoản của nhà ở là kém nhất trong đây.

14

Muốn thực hiện chức năng làm phương tiện trao đổi tốt nhất thì phải dễ sử dụng và
thuận tiện nhất, đồng nghĩa với việc nó phải có tính thanh khoản cao nhất. Mà theo
chứng minh ở câu 3 thì khối tiền đó là M1.

  1. Giá cả tăng lên là biểu hiện của lạm phát chứ không phải nguyên nhân.
    16
    17

Chế độ bản vị vàng :

 Cơ sở đảm bảo giá trị: Vàng
 Cách định giá: 1 đơn vị tiền giấy = một trọng lượng vàng nhất định (quy định
trong luật).

 Căn cứ phát hành tiền: dựa theo lượng vàng nắm giữ. Có bao nhiêu vàng thì
in bấy nhiêu tiền theo tỉ lệ đã quy định.
 Nhà nước không hạn chế việc đúc tiền vàng, lưu thông song hành cả tiền
vàng và tiền giấy (với chế độ bản vị tiền vàng) hoặc rút vàng ra khỏi lưu
thông đưa vào cất trữ (bản vị vàng thỏi).
 Tiền giấy được phép tự do chuyển đổi ra vàng theo tỉ lệ đã quy định.

18

Câu A. Thời kì bản vị vàng, khi tất cả các nước đều áp dụng chế độ tiền tệ này, giá
trị mỗi đồng tiền được ghim chặt vào một lượng vàng tiêu chuẩn, nên gián tiếp các
đồng tiền cũng được áp giá cố định theo nhau (chế độ tỉ giá cố định).

Câu B. Giả sử tỉ giá trao đổi giữa các quốc gia biến động liên tục như ngày nay, một
DN xuất khẩu lô hàng ra nước ngoài, sau khi nhận tiền hàng bằng ngoại tệ từ đối
tác, tiến hành quy đổi về nội tệ để phục vụ cho sản xuất trong nước. Tại thời điểm
đó, nội tệ bất ngờ tăng giá so với ngoại tệ khiến số nội tệ đổi được ít đi, gây lỗ cho
DN. Hay trường hợp khác, một DN nhập khẩu phải trả tiền hàng cho nhà cung cấp ở
nước ngoài một số tiền bằng ngoại tệ. Nhưng tại thời điểm thanh toán giá ngoại tệ
tăng, đòi hỏi DN phải bỏ ra nhiều đồng nội tệ hơn trước để mua được một ngoại tệ,
từ đó làm tăng chi phí và gây thiệt hại cho DN. Khi vấp phải các tình huống trên, do
tỉ giá biến động, các DN sẽ cảm thấy e ngại môi trường quốc tế và hạn chế hoạt
động trên thị trường này, từ đó thu hẹp thương mại xuyên quốc gia. Đây là nhược
điểm của chế độ tỉ giá linh hoạt so với chế độ cố định của thời kì bản vị vàng.

Câu C. Trong chế độ bản vị vàng, vì giá trị quy đổi giữa tiền và vàng là cố định, lại
được tự do chuyển đổi, nên lượng tiền NHTW in ra hoàn toàn được quyết định bởi
lượng vàng mà nó đang nắm giữ. Vàng khai thác, nhập khẩu được nhiều thì in nhiều
tiền, ngược lại vàng ít thì tiền cũng ít nên ở đây NHTW không thể tự quyết theo ý
kiến chủ quan của họ.

19

Trong định nghĩa về tiền, người ta chỉ nhắc tới chức năng phương tiện thanh
toán/trao đổi mà không nói tới hai chức năng còn lại. Sở dĩ vậy bởi hai chức năng kia
là phái sinh từ chức năng thứ nhất mà ra. Về mặt lịch sử, tiền tệ ra đời sơ khởi là để
đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hoá của dân cư một vùng, khi lượng hàng cũng như
nhu cầu của người dân đã lên rất cao. Thay vì người ta mang đồ nhà mình đi đổi cho
người khác một cách cồng kềnh mà chưa chắc đã khớp ý nhau thì việc thừa nhận
một vật trung gian thanh toán chung để tiến hành mua bán sẽ gọn nhẹ và thuận
tiện hơn – chức năng phương tiện trao đổi. Rồi từ đó thay vì việc niêm yết giá bằng
tỉ lệ hàng đổi hàng (1 con gà bằng 2 đấu gạo), người ta sẽ quy định một đấu gạo là
5 đồng tiền, một con gà là 10 đồng tiền,… tiền được thay cho hàng để làm đơn vị
yết giá do tiền là vật ngang giá chung, nhờ đó những người không có gà vẫn mua
được gạo vì họ có tiền từ việc bán vải nhà mình dệt được chẳng hạn – phương tiện
yết giá. Đồng thời, tiền dù không có giá trị sử dụng, nhưng nó được xã hội chấp

Với chức năng cất trữ giá trị, hiện nay có rất nhiều loại tài sản thay thế được cho
tiền mặt và thậm chí làm công việc này tốt hơn tiền mặt như vàng, bạc, xe hơi, BĐS,

Về thước đo giá trị, ví dụ như trong các hợp đồng xuất nhập khẩu, do lo ngại tỉ giá
biến động (thời chưa có nhiều công cụ phái sinh phòng hộ), người ta thường yết giá
hợp đồng bằng vàng do giá vàng ổn định hơn, thay vì là một loại ngoại tệ nào đó vì
rất có thể tỉ giá biến động bất thường sẽ làm lợi cho một bên đối tác và gây thiệt hại
cho bên kia. Như vậy tiền không phải là thứ duy nhất được cân nhắc khi yết giá.

Thứ nữa là phương tiện thanh toán nợ, hiện nay nợ giữa các quốc gia, nợ quốc gia
với các tổ chức quốc tế được thanh toán chủ yếu bằng vàng bên cạnh các đồng
SDR, USD,…

25
26

Trong nền kinh tế trao đổi hiện vật, giá cả mỗi mặt hàng được yết theo tất cả các
mặt hàng còn lại. Mức giá là một cái link thông tin giữa hai mặt hàng, hiện nay ta
đang có N mặt hàng, vậy để link được mỗi cái với N-1 cái còn lại, ta có [N(N-1)]/
mức giá.

27

Khi tiền ra đời, nó đã thay hàng hoá làm phương tiện đo lường giá trị, nên việc yết
giá hiện nay chỉ dựa trên một đơn vị thống nhất, sẽ giúp giảm bớt số giá phải yết (N
mặt hàng thì chỉ có N mức giá chứ ko cần nhiều như trên).

Với ý câu A. Như câu 19 ta đã chứng minh, đưa tiền vào sử dụng sẽ làm giảm chi phí
lưu thông.

Với ý câu C. Nếu có tiền bạn hoàn toàn có thể đem gửi ngân hàng và nhận lãi định
kì.

Với ý câu D. Việc đưa tiền vào sử dụng như một “chất bôi trơn” cho quá trình lưu
thông hàng hoá, không chỉ khiến nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng dễ
dàng hơn, mà qua đó còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Guồng máy kinh
tế quay càng nhanh, càng khiến cho mỗi người phải biết tối ưu hoá lợi thế để cạnh
tranh, từ đó hoạt động chuyên môn hoá được tăng cường, không chỉ đem lại lợi ích
cho nhà sản xuất mà còn là những người tiêu dùng.

28

Cất trữ giá trị là việc anh có thu nhập ở hiện tại nhưng không đem chi tiêu ngay mà
để dành đó, phòng khi có sự cần sau này mới đem ra dùng. Tiền tiết kiệm có thể
đem gửi ngân hàng lấy lãi.

Trong thời kì lạm phát cao tiền mất giá nhanh, người ta thường có xu hướng chuyển
sang nắm giữ ngoại tệ của một nước có mức độ lạm phát thấp và ổn định hơn hoặc
sang các tài sản thực khác như nhà đất, vàng, ô tô,… Sở dĩ không ai muốn chuyển
hết tài sản của mình sang những thứ trên bởi cuộc sống hàng ngày vẫn đòi hỏi
những chi tiêu nhỏ lẻ cần tiền như điện, nước, mạng, xăng xe,..ính thanh khoản
cao của tiền thể hiện ở chỗ đó, dù mất giá nhưng là phương tiện được xã hội chấp
nhận chung nên không ai tự tách mình ra khỏi tập quán đó mà không cần tiền được
cả.

  1. Giá trị của tiền =

1

M cứ giá chung

. Khi giá cả giảm xuống, giá trị của tiền

tăng lên.
31
32.

Thời kì siêu lạm phát tiền tệ mất giá rất nhanh, đương nhiên người ta không thể tiếp
tục dùng nó để cất trữ giá trị. Lúc đó họ phải tính đến việc chuyển tài sản sang các
hình thái khác bền vững hơn nhằm bảo toàn sức mua cho tương lai. Do không ai còn
tin dùng một đồng tiền có giá trị thấp, cồng kềnh khi đem ra mua bán, nên người ta
có xu hướng chuyển sang trao đổi hàng hoá hiện vật.

Với ý câu A. Hiển nhiên sai do lạm phát tiền giảm giá.

Với ý câu C. Không có gì khẳng định tầng lớp trung lưu sẽ được lợi. Nhưng tầng lớp
thượng lưu sẽ có ưu thế hơn do họ vốn nắm giữ nhiều tài sản thực có giá trị như đất
đai, nhà cửa, vàng bạc, tài khoản ngoại tệ gửi ở nước ngoài,… do vậy ảnh hưởng của
lạm phát lên họ không lớn bằng các tầng lớp thấp hơn.

Với ý câu D. Giá cả tăng thì giá trị của tiền sẽ giảm. Trong thời kì lạm phát, một
đồng tiền mua được ít hàng hoá hơn trước và như vậy giá trị của chúng suy giảm.

Thanh toán bằng séc giúp khách hàng không cần mang tiền mặt khi đi mua sắm,
vừa tiện lợi, vừa tránh mất trộm, nên nó tân tiến hơn tiền giấy. Còn chuyển khoản
điện tử, ví dụ như nhà nhập khẩu muốn thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu ở
nước ngoài, anh không cần phải chuyển phát nhanh tờ séc mình kí đến đưa cho họ,
mà chỉ cần yêu cầu ngân hàng phục vụ chuyển tiền qua tài khoản của người xuất
mở tại một ngân hàng đại lí nào đó ở nước ngoài. Rất nhanh, thuận tiện và chính
xác, phương thức thanh toán này dĩ nhiên hiện đại hơn dùng séc.

Khối tiền tệ cũng chính là lượng tiền cung ứng/cung tiền mà ta sẽ được nghiên cứu
trong chương 9. Số liệu về cung tiền được công bố định kì bởi ngân hàng trung ương
của mỗi nước.

  1. D. Thị trường tài chính sẽ giúp nâng cao hiệu quả phân bổ, sử dụng vốn theo
    các hướng sau:
     Trong nền kinh tế thị trường không có thứ gì là miễn phí, lãi suất chính là giá
    của khoản vốn mà những người có nhu cầu trả cho nhà cung cấp. Điều đó
    buộc người cần nguồn tài chính phải biết sử dụng khoản vốn vay được một
    cách tiết kiệm mà đem lại lợi nhuận cao nhất (sử dụng có hiệu quả).
     Mặt khác thị trường tài chính, cụ thể là thị trường chứng khoán đòi hỏi các DN
    phải công bố các vấn đề tài chính, những thông tin về DN và yêu cầu đảm
    bảo tính chính xác của thông tin đó. Với sự tự do lựa chọn của nhà đầu tư,
    không còn cách nào khác, các nhà quản trị DN phải làm ăn đàng hoàng, sử
    dụng nguồn vốn, cả vốn chủ và vốn vay một cách có hiệu quả.
     Cùng với chức năng cung cấp thông tin một cách minh bạch, chính xác, kịp
    thời, thị trường tài chính cũng giúp nhà đầu tư cân nhắc kĩ lưỡng các kênh
    đầu tư an toàn, sinh lời, đảm bảo cho nguồn tài chính được vận động đến
    đúng nơi mà chúng được sử dụng có hiệu quả.
     Không chỉ thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong DN, mà thị
    trường tài chính còn giúp đẩy mạnh hiệu quả sử dụng vốn của cả nền kinh tế.
    Với các sản phẩm tài chính đa dạng, nhiều loại hình chủ thể, kì hạn, phương
    thức huy động, phương thức trả lãi,… đã tạo điều kiện cho những người thừa
    vốn tích cực đưa vốn ra nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu đa dạng về vốn
    cho các DN, từ đó thúc đẩy sản xuất, lưu thong hàng hoá.

  2. C. Nguồn cung vốn ra thị trường tài chính sắp theo khối lượng giảm dần là: Cá
    nhân, hộ gia đình; DN; Chính phủ; nước ngoài. Các chủ thể được xếp theo
    mức nhu cầu vốn giảm dần là: DN; Chính phủ; cá nhân, hộ gia đình; nước
    ngoài.

  3. A

Tài chính trực tiếp : là vốn được chuyển giao từ người thừa sang người thiếu một
cách trực tiếp, không thông qua trung gian, bằng các thoả thuận ghi nợ hoặc người
cho vay mua chứng khoán của người đi vay phát hành. Ví dụ ông A mua trái phiếu
do công ty B phát hành, tức là ông A đã cho công ty B vay một khoản tiền bằng với
giá trị lô trái phiếu đó. Trái phiếu là giấy ghi nợ số tiền in trên đó mà công ty B còn
nợ ông A cho đến khi đã thanh toán/trả lại cả vốn lẫn lại đầy đủ vào ngày đáo hạn.

Tài chính gián tiếp : là vốn được chuyển giao từ người đi vay tới người cho vay
thông qua trung gian tài chính. Trung gian tài chính đứng giữa, vay vốn từ người
thừa vốn với một mức lãi suất, rồi cho vay lại người thiếu vốn với mức lãi suất cao
hơn để ăn chênh lệch. Trung gian tài chính điển hình trong nền kinh tế là các NHTM.

Câu A. Mua cổ phiếu tức là anh đem tiền đi đầu tư vào DN với tư cách chủ sở hữu,
khác với trái phiếu là chủ nợ. Việc mua bán giữa nhà đầu tư và DN là trực tiếp, thiết
lập quyền sở hữu ngay khi anh nắm giữ cổ phiếu trong tay, không thông qua một
trung gian nào.

Câu B. Quỹ tương hỗ (Mutual Fund) là một quỹ đầu tư tập thể, do nhiều cá nhân,
tổ chức góp vốn bằng hình thức mua cổ phiếu của quỹ, rồi dùng số vốn gom được
đầu tư vào một danh mục chứng khoán nhất định, nhằm kiếm lời cho các chủ sở
hữu quỹ. Như vậy, việc một người mua cổ phiếu quỹ tương hỗ chỉ là gián tiếp đầu tư
cho DN sản xuất kinh doanh, thông qua quỹ tương hỗ, chứ không phải đem tiền trực
tiếp đầu tư vào DN như hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu do DN phát hành. Quỹ
tương hỗ đóng vai trò là trung gian tài chính nên đây là hình thức tài chính gián tiếp.

Câu C. Quỹ hưu trí là một quỹ được thiết lập để thanh toán những khoản lợi ích cho
người lao động khi về hưu, giúp họ có được thu nhập ổn định thông qua cung cấp
các chương trình lương hưu. Đối tượng thành lập quỹ là các DN, người lao động, Nhà
nước. Người quản lí của quỹ hưu trí không phải chủ sở hữu mà chỉ là người nắm giữ
thay, đại diện quản lí nó. Dùng tiền của quỹ hưu trí mua chứng khoán tức là các chủ
sở hữu đã gián tiếp thông qua trung gian tài chính để đầu tư vào DN. Đây là hình
thức tài chính gián tiếp.

Câu D. Công ty bảo hiểm huy động vốn từ việc bán các hợp đồng bảo hiểm và thu
phí từ khách hàng. Để sinh lời trên số vốn huy động đó và có thêm nguồn tài chính
chi trả khi có rủi ro xảy ra, các công ty bảo hiểm thường đầu tư vào các chứng
khoán thanh khoản kém nhưng an toàn vừa nhằm bảo toàn vốn lại vừa sinh lợi. Huy
động vốn của người này rồi cho người khác vay nên công ty bảo hiểm cũng là một
loại hình trung gian tài chính và đây là hình thức tài chính gián tiếp.

  1. D. Tài chính gián tiếp là cấp vốn thông qua trung gian

Câu A. Ông A đưa thẳng tiền cho người hàng xóm đang thiếu vốn vay => trực tiếp

Câu B. Mua cổ phiếu là đầu tư trực tiếp vào DN phát hành nhằm nắm quyền quản lí
=> trực tiếp

Câu C. Mua tín phiếu Kho bạc trực tiếp từ nơi phát hành là Kho bạc, đồng nghĩa với
việc cho Nhà nước vay tiền không thông qua trung gian => trực tiếp

Câu D. Gửi tiền tại ngân hàng, nhưng rồi ngân hàng không thể để tiền “chết” ở đó
mà không sinh lời nên lại tiếp tục cho vay ra với các đối tượng cần vốn => gián tiếp

  1. A.

Người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ của tổ chức phát hành, có quyền truy đòi đối với
thu nhập và tài sản của tổ chức đó. Nên trái phiếu là tài sản của người nắm giữ và là
nợ đối với tổ chức phát hành.

  1. D. Bán chứng khoán hay kí giấy nhận nợ đều là hình thức huy động vốn trực
    tiếp.
  2. A. Người tiết kiệm là người có vốn còn nhà đầu tư là người có nhu cầu sử dụng
    vốn.

CHƯƠNG 3: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

PHẦN 1: LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN ĐÚNG VÀ GIẢI THÍCH

  1. A. Thu trong cân đối NSNN gồm các khoản:
     Thuế
     Phí và lệ phí
     Các hoạt động kinh tế của Nhà nước (thu từ lợi tức cổ phần; các nguồn thu từ
    việc bán, cho thuê tài sản Nhà nước;…)
     Các khoản thu khác theo luật định (Thu kết chuyển từ năm trước sang, thu từ
    các khoản đóng góp tự nguyên của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước)

Trong đó:

Thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước theo
luật định. Các loại thuế đang được áp dụng tại VN hiện nay như thuế thu nhập cá
nhân, thuế thu nhập DN, thuế môn bài, thuế xuất-nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên,…

Phí là khoản tiền mà các cá nhân, tổ chức phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung ứng dịch vụ. Phí có rất nhiều loại như phí giao thông, phí thuỷ lợi, học phí,
viện phí,…

Lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức có thẩm quyền cung cấp các dịch vụ công về hành chính, pháp lí. Các
loại lệ phí như lệ phí đăng kí hộ khẩu, lệ phí chứng nhận kết hôn, lệ phí công chứng,
lệ phí cấp phép hành nghề,…

  1. B. Chi đầu tư phát triển là các khoản chi giúp làm tăng tài sản quốc gia:
     Chi mua sắm máy móc, thiết bị, dụng cụ.
     Chi xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội (gồm cả xây mới và tu bổ, nâng
    cấp): đường sá, cầu cống, cảng biển, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, mạng điện,
    viễn thông, trường học, bệnh viện,…
     Chi hỗ trợ các DNNN, đầu tư góp vốn cổ phần vào các DN hoạt động trong
    lĩnh vực trọng yếu đối với nền kinh tế.
     Chi đầu tư liên quan đến sự tài trợ của Nhà nước dưới hình thức cho vay ưu
    đãi, trợ cấp,…

Nhiều tài liệu viết cả chi dự trữ (nhằm điều hoà thị trường, cân bằng cung-cầu, khắc
phục thiệt hại kinh tế do thiên tai địch hoạ gây ra, …) là thuộc chi đầu tư phát triển,
nhưng theo luật ngân sách 2015 mới thì đây là một khoản chi riêng, độc lập với chi
đầu tư.

  1. A. Theo thống kê, thuế là nguồn thu lớn nhất cho NSNN ở hầu khắp các quốc
    gia.
  2. B

Xây dựng chính sách thuế tối ưu, đảm bảo nguồn thu ổn định cho NS là nhiệm vụ
thường trực và luôn đúng. Còn khảo sát tác động của thuế lên các đối tượng, thành
phần khác nhau trong nền kinh tế nhằm cắt giảm gánh nặng thuế, kích thích xuất-
nhập khẩu thì chỉ đúng trong một vài thời kì, như khi sản xuất đình đốn, DN gặp khó
khăn hoặc hàng hoá dư thừa phải khuyến khích xuất khẩu; khi nguyên vật liệu,
hàng tiêu dùng tại thời điểm đó không đáp ứng được nhu cầu trong nước, buộc phải
tăng cường nhập khẩu.

  1. D. Khi xảy ra thâm hụt NS (chi vượt thu):
     Nhà nước thiếu vốn để cân đối => cầu vốn tăng => lãi suất thị trường tăng
    Hoặc khi Nhà nước thiếu vốn => tăng lượng phát hành trái phiếu để vay nợ
    người dân => cung trái phiếu tăng => giá trái phiếu giảm => lãi suất tăng
    => A đúng
     Khi chi vượt thu, tức không còn tiền để tiết kiệm => tiết kiệm nhà nước giảm,
    thậm chí phải đi vay nợ từ nguồn vốn tư nhân để bù đắp => tiết kiệm tư nhân
    giảm. Vậy tổng tiết kiệm quốc gia giảm => B đúng
     Như trên đã chứng minh ở trên, khi thâm hụt xảy ra lãi suất thị trường tăng
    => giảm đầu tư. Nhưng đồng thời lại hấp dẫn được các luồng vốn quốc tế đổ
    vào nhằm hưởng mức lãi suất cao hơn => thặng dư cán cân vốn.
    Lãi suất cao khiến nội tệ lên giá, ngoại tệ rẻ hơn một cách tương đối. Từ đó
    xuất khẩu bị ảnh hưởng tiêu cực trong khi nhập khẩu được tăng cường =>
    thâm hụt cán cân thương mại.
    Ta có: cán cân thanh toán = cán cân vốn + cán cân thương mại, do hai thành
    phần một tăng một giảm nên không xác định chính xác được tổng thể tăng
    hay giảm.

Ở đây người ta chỉ đề cập đến cán cân thương mại, và ta đã chứng minh được nó
giảm nên C đúng.

  1. A. Thuế có hai vai trò quan trọng: một là huy động nguồn lực tài chính cho
    Nhà nước (nguồn thu chủ yếu), hai là điều tiết vĩ mô.

Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, biểu hiện ở các điểm:

 Thuế có thể được sử dụng như một công cụ nhạy bén góp phần kiềm chế lạm
phát, ổn định giá cả, kích thích đầu tư tạo nền tảng cho sự phát triển bền
vững.
 Trường hợp lạm phát do cầu kéo: Nhà nước tăng thuế tiêu dùng, làm giảm bớt
áp lực tăng cầu giả tạo, trên cơ sở đó điều chỉnh lại cân bằng cung-cầu.
 Trường hợp lạm phát do chi phí đẩy: Nhà nước giảm thuế đối với các chi phí
đầu vào (xăng, dầu, điện, nước,…), nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo
điều kiện hạ giá thành sản phẩm, trên cơ sở đó lập lại quan hệ cung-cầu.

thậm chí trốn thuế nhằm chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước; lợi dụng các
khe hở của pháp luật để tránh thuế;…
 Nguyên nhân từ phía cơ quan thuế: Do nhận thức của một bộ phận cán bộ
còn hạn chế, chưa hiểu và nắm hết các quy định, quy trình trong ngành;
nhiều cán bộ suy thoái, biến chất, thông đồng với các cá nhân, DN nhằm kê
thấp giá trị tính thuế, trục lợi từ nguồn thu của ngân sách;…
 Nguyên nhân nội hàm do hệ thống thuế của ta còn phức tạp, từ các văn bản
pháp luật cho tới bộ máy hành chính quản lí cồng kềnh, quan liêu, chậm cải
tiến, gây khó khăn cho việc kê khai, nộp thuế của DN.
 Nguyên nhân khách quan như kinh tế suy thoái, bất ổn; thiên tại địch hoạ gây
bất lợi lên tình hình sản xuất kinh doanh của DN.

  1. B. Bàn luận về các giải pháp tài trợ thâm hụt NSNN hiện nay:

(Phân biệt tài trợ với cắt giảm thâm hụt NS, cắt giảm là tăng thu-giảm chi, còn tài
trợ là chỉ tìm nguồn vốn bên ngoài bù đắp vào)

Vay nợ trong nước : Chính phủ phát hành trái phiếu và bán cho các đối
tượng thừa vốn như cá nhân, tổ chức, DN, ngâng hàng,… trong nước. Đây chỉ
là một khoản vay thông thường, cung tiền không bị tác động, nên không ảnh
hưởng đáng kể tới lạm phát, tỉ giá.
Lưu ý là trong thực tế có trường hợp Chính phủ phát hành trái phiếu bán cho
NHTM, nhưng rồi NHTM lại đem chiết khấu số trái phiếu đó tại NHTW, dẫn tới
không khác gì là NHTW đang tài trợ vốn cho Chính phủ chi tiêu.
Vay nợ nước ngoài : Khi vay nợ nước ngoài, nguồn tài chính nhận về là ngoại
tệ, để có thể sử dụng được ở thị trường trong nước, Chính phủ phải bán lại
cho NHTW lấy nội tệ ra. Tiền được in bổ sung không phải do kinh tế tăng
trưởng, hàng hoá được sản xuất nhiều hơn, mà là để đối ứng với lượng ngoại
tệ tăng thêm trên bảng cân đối tài sản của NHTW, dẫn tới nguy cơ lạm phát.
Thậm chí nếu Chính phủ vay ngoại tệ về không bán cho NHTW mà bán lại cho
một NHTM nào đó thì cung USD trên thị trường tăng => USD giảm giá => nội
tệ lên giá => cản trở xuất khẩu và tạo ra gánh nặng lên cán cân thương mại.
NHNN có thể khắc phục bằng cách mua lại số ngoại tệ dư thừa trên thị trường
và kịch bản lại như trên => lạm phát, áp lực tài khoá.
Thêm nữa, việc vay nợ nước ngoài sẽ tác động lên uy tín quốc gia, nghiệp vụ
phức tạp, phải chịu thêm ràng buộc tài chính, nên đây không phải là một giải
pháp hay.
Xuất quỹ dự trữ ngoại hối ra chi tiêu : Phải khẳng định trước rằng, quỹ dự
trữ ngoại hối quốc gia là để ổn định tỉ giá, dùng trong thanh toán và trả nợ
quốc tế, chứ không phải để chi tiêu. Gần đây Chính phủ có đề xuất sử dụng
quỹ dự trữ ngoại hối mà NHNN đang quản lí để bù đắp hụt thu ngân sách do
giá dầu sụt giảm. Nhưng ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối quyết liệt từ
phía các chuyên gia kinh tế do nhiều nguyên nhân. Có thể kể đến như việc
dùng quỹ cho chi tiêu như đề xuất của CP là sai mục đích, hầu như chỉ khi
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, thiếu vốn trầm trọng mới phải động đến quỹ

dự trữ ngoại hối. Thứ hai, tổng giá trị quỹ hiện nay là 38 tỉ USD, dù đã đạt tới
mức cao kỉ lục trong lịch sử nhưng so với tiêu chuẩn do IMF đề ra là khối
lượng tối thiểu từ 3-4 tháng nhập khẩu thì vẫn chưa đáp ứng đủ. Thứ ba, tỉ giá
của ta khá bấp bênh, dễ biến động do tâm lí bất an hoặc hoạt động đầu cơ
gây nên, nếu không còn một quỹ dự trữ ngoại hối lớn, đủ sức can thiệp thị
trường nhằm bình ổn tỉ giá thì không còn gì có thể bảo vệ cho đồng nội tệ.
Thứ tư, đa phần dự trữ ngoại hối của ta đến từ các khoản viện trợ ODA, đầu tư
FDI, FPI, vay nợ nước ngoài,…, đến từ thặng dư thương mại rất ít, nên bản
chất nó là một khoản nợ (từ các chủ nợ, nhà đầu tư nước ngoài) và rồi đến
một lúc nào đó phải có nghĩa vụ hoàn trả nên không thể sử dụng tuỳ ý được.
Vay của NHTW (với mô hình NHTW độc lập Chính phủ) : Chính phủ phát
hành trái phiếu và bán lại cho NHTW. Tiền được NHTW in thêm ra để trả cho
lô trái phiếu đó. Việc in tiền không dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế kì vọng
hay tỉ lệ lạm phát dự kiến mà in một cách kĩ thuật như vậy cố nhiên sẽ có tác
động đột biến lên cung tiền và ảnh hưởng tới lạm phát.
Phát hành tiền (với mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ) : Việc phát
hành tiền nhằm bù đắp thâm hụt hoặc tài trợ cho chi tiêu Chính phủ được
thực hiện không dựa trên tín hiệu của nền kinh tế mà căn cứ vào mệnh lệnh
hành chính từ cấp trên là trái với nguyên tắc thị trường. Khác với việc Chính
phủ vay tiền từ NHTW, chủ động cho phát hành tiền không tạo ra nghĩa vụ nợ
với ngân sách, việc phát hành là tuỳ ý, chủ quan. Đây có thể coi là giải pháp
cuối cùng, bất đắc dĩ mới phải làm, tiền in thêm đến đâu mất giá đến đấy và
càng thúc ép Chính phủ phải cho in nhiều hơn nữa. Hậu quả tất yếu là lạm
phát gia tăng, đồng tiền mất giá.

Tóm lại, sau khi phân tích kĩ ưu-nhược điểm của từng phương pháp, ta có thể kết
luận, vay nợ trong nước là giải pháp tối ưu nhất và thực tế cũng được áp dụng nhiều
nhất.

10

Câu A. Phát hành thêm tiền mặt vào lưu thông (=> tăng cơ sở tiền tệ MB) + Bán trái
phiếu chính phủ cho các NHTM (=> tăng số nhân tiền m). Vậy chắc chắn cung tiền
tệ MS sẽ tăng.

Câu B. Phát hành trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc: Tiền chỉ chuyển từ khu
vực kinh tế sang Chính phủ, không thông qua trung gian ngân hàng hay liên quan gì
tới NHTW nên MS không đổi.

Câu C. Phát hành trái phiếu quốc tế: Chính phủ vay ngoại tệ về, nếu đem chi tiêu
ngay không quy đổi ra nội tệ (như cho DNNN vay lại để nhập khẩu hàng hoá hoặc
trả nợ đối tác nước ngoài) thì cung tiền tệ trong nước không đổi. Chỉ trừ khi CP bán
lại cho NHTW lấy nội tệ ra chi tiêu thì mới làm MS tăng.

  1. Giai đoạn dự toán thu chi NSNN đã được QH phê chuẩn và có hiệu lực thi
    hành chỉ là một phần của chu trình NS và là giai đoạn thực hiện NS.
    22.Đúng. Theo thống kê, chi thường xuyên thường chiếm tỉ trọng lớn hơn chi đầu
    tư phát triển.
    23.Đúng. Thâm hụt NS thể hiện những bất cập trong việc quản lí thu-chi của CP
    hoặc do một nền kinh tế đang rơi vào khủng hoảng, suy thoái.
  2. Năm NS luôn nằm trong chu trình NS.
  3. Các khoản thu từ phát hành trái phiếu là thu ngoài cân đối.
    26.Đúng. Theo quy định, tiền đi vay về chỉ được dùng cho chi đầu tư phát triển.
    27.Đúng
    28.Đúng. Thâm hụt NS => Lãi suất tăng => Đầu tư giảm => Tỉ lệ thất nghiệp
    tăng.
  4. Phát hành TPKB chỉ là giải pháp ngắn hạn. Về dài hạn, Chính phủ phải
    phải thực hiện tốt công tác điều hành và quản lí ngân sách.
    30.Đúng. Trong ngắn hạn, khi chưa thể tăng thuế và giảm chi tiêu công, CP
    thường phải đi vay nợ.
    31 (chứng minh trên)

CHƯƠNG 4: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

PHẦN 1: LỰA CHỌN ĐÚNG/SAI VÀ GIẢI THÍCH

  1. Sai

Trái phiếu chuyển đổi (convertible bond) là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành
bán cho nhà đầu tư, trong đó có thoả thuận đến một thời điểm nào đó sau khi phát
hành, các nhà đầu tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu (của chính tổ chức đó)
theo một tỉ lệ nhất định.

Đây là một dạng chứng khoán lai (hybrid), do vừa có tính chất của chứng khoán nợ,
vừa có tính chất của chứng khoán vốn.

  1. Sai. Theo tính chất sở hữu, nguồn vốn của DN được chia thành 2 loại: vốn chủ
    sở hữu và vốn nợ.

Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc về các tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu của DN,
gồm các thành phần:

 Vốn góp ban đầu khi thành lập DN
 Quỹ lợi nhuận chưa phân phối
 Các quỹ chuyên dùng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài
chính, quỹ đầu tư phát triển,…
 Huy động từ phát hành cổ phiếu đợt đầu, thặng dư vốn cổ phần ở các đợt sau,
trái phiếu chuyển đổi,…

Vốn nợ là nguồn vốn DN huy động từ bên ngoài, mang tính chất vay mượn có hoàn
trả, một số nguồn cơ bản như:

 Vay của các NHTM và tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác
 Phát hành chứng khoán nợ như trái phiếu, tín phiếu
 Nhận tiền ứng trước của khách hàng, tín dụng thương mại

Khi DN phát hành trái phiếu, tức đi vay vốn của các nhà đầu tư, thì vốn nợ tăng lên,
vốn CSH không đổi.

  1. Sai

Trong thực tế có lưu hành một loại trái phiếu đặc biệt là trái phiếu có lãi suất thả
nổi
. Đây là loại trái phiếu có lãi suất được thay đổi theo từng chu kì, có thể là 6
tháng hay 1 năm,… tuỳ thuộc vào đơn vị phát hành. Thông thường, tổ chức phát
hành sẽ cam kết điều chỉnh tăng lãi suất trái phiếu khi lãi suất huy động vốn trên thị
trường tăng, ít nhất phải thay đổi cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ; còn ngược
lại nếu lãi suất huy động vốn giảm thì mức lãi suất mà người sở hữu hưởng sẽ được
giữ nguyên. Và như vậy không phải mọi loại trái phiếu đều có lãi suất được xác định
trước.

  1. Sai. Nguồn vốn huy động từ phát hành cổ phiếu là một bộ phận của vốn chủ
    sở hữu.
  2. Sai

Cổ đông có nhận được cổ tức hay không tuỳ thuộc vào việc DN làm ăn có lãi hay
không và chính sách chia cổ tức như thế nào. Đôi khi DN kinh doanh có lãi nhưng
vẫn không chia cổ tức vì muốn để số vốn đó tái đầu tư mở rộng sản xuất, họ hi sinh
lợi ích nhỏ trước mắt để hướng tới mức lợi nhuận cao hơn sau này. Việc huy động
vốn chủ từ sự tài trợ nội bộ nhìn chung không có tác động trực tiếp gì tới việc chia
cổ tức cho các cổ đông. (Nhưng nếu hiểu số vốn chủ này là lợi nhuận giữ lại, thì khi
DN giữ lại càng nhiều, cổ tức trả cho cổ đông càng ít).

  1. Đúng. DN cổ phần phát hành trái phiếu thì vốn nợ tăng, vốn chủ không đổi.