Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường học XHCN của thanh niên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên Việt Nam | Sinh viên

Chuyên đề 4
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG HỌC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA THANH NIÊN, NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
————
I- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1. Nguyễn Ái Quốc và quá trình chuẩn bị thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản ở Việt Nam
Ngày 5-6-1991, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm bôn ba khắp các châu lục, Người đã tìm thấy ánh sáng chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin. Người tham gia Đại hội Tua tháng 12-1920 và bỏ phiếu tán thành Quốc tế III do V.I.Lênin sáng lập. Tháng 11-1924, Người từ Liên Xô trở về Trung Quốc hoạt động. Trong thời gian hoạt động từ tháng 12-1924 đến tháng 2-1925, Người đã tiếp xúc và làm việc với nhóm Việt Nam yêu nước trong tổ chức Tân Việt Thanh niên Đoàn (Tâm tâm xã) do Hồ Tùng Mậu và một số nhà yêu nước Việt Nam thành lập từ năm 1923 tại Quảng Châu. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức: “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên” gồm 9 hội viên, có nòng cốt là Cộng sản Đoàn. Đây cũng là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Cuối năm 1925, đầu năm 1926 với tầm nhìn xa trông rộng chuẩn bị cho đội ngũ kế cận cách mạng sau này. Nguyễn Ái Quốc đã cử đồng chí Hồ Tùng Mậu về Thái Lan để củng cố cơ sở cách mạng của bà con Việt kiều trong đó có cơ sở “Trại cày” của cụ Đặng Thúc Hứa (Tú Hứa) tại Bản Mạy, tỉnh Na Khon Phanom (Thái Lan) để tuyển chọn một số thiếu niên là con em Việt kiều có tinh thần yêu nước đang học tại Trường Hoa – Anh học hiệu do một người Trung Quốc làm hiệu trưởng. Trong số thiếu niên đó có Lê Hữu Trọng (còn có tên là Lê Văn Trọng),  tức Lý Tự Trọng đã được bí mật đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) đào tạo. Số còn lại tuyển chọn từ trong nước sang là con em những gia đình có truyền thống yêu nước, quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An.
Như vậy, đến giữa năm 1926 tại Quảng Châu ngoài 9 hội viên đầu tiên của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập còn có một tổ chức khác là Nhóm thiều nhi Việt Nam gồm 8 thiếu niên là con em Việt kiều và con em những gia đình cách mạng. Khi sang Trung Quốc, để đảm bảo bí mật, cả 8 em thiếu niên đều được cải tên, đổi họ và mang họ Lý (với danh nghĩa là con cháu của đồng chí Lý Thụy – một bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi đang hoạt động tại Quản Châu), đó là:
1. Lê Hữu Trọng (Lê Văn Trọng) được mang tên là Lý Tự Trọng.
2. Ngô Trí Thông được mang tên là Lý Trí Thông.
3. Ngô Hậu Đức được mang tên là Lý Phương Đức.
4. Đinh Chương Long được mang tên là Lý Văn Minh.
5. Nguyễn Thị Tích được mang tên là Lý Phương Thuận.
6. Hoàng Anh Tự (Tợ) được mang tên là Lý Anh Tự.
7. Vương Thúc Thoại (Toại) được mang tên là Lý Thúc Chất.
8. Nguyễn Sinh Thản được mang tên là Lý Nam Thanh.
Tại Quảng Châu nhóm thiếu niên này được học một lớp chính trị theo chương trình riêng và tiếp tục được tổ chức của Tổng bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên gửi học văn hóa tại trường Sơ trung – Tiểu học mang tên nhà cách mạng Tôn Trung Sơn.
2. Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
 Chỉ trong một thời gian ngắn từ giữa năm 1925, tại Quảng Châu – Trung Quốc đã hình thành tổ chức cách mạng Việt Nam đầu tiên có xu hướng cộng sản. Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên với 9 hội viên là những thanh niên Việt Nam đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giác ngộ kết nạp đưa vào tổ chức. Sự xuất hiện của nhóm thanh niên cách mạng với 9 hội viên này tuy còn nhỏ bé trên con đường dài dựng Đảng, lập Đoàn, nhưng đó là thời điểm khai sinh ra một thế hệ thanh niên mới, một sự kiện quan trọng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển các tổ chức thanh niên cách mạng theo xu hướng Cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời với sự ra đời của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng vào năm 1930 sau này, thì sự xuất hiện của Nhóm thiếu nhi cộng sản đầu tiên của Việt Nam vào năm 1926 với 8 thiếu niên đầu tiên là quá trình chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lực lượng để hình thành tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương vào tháng 3-1931 sau khi Đảng ra đời vào một năm.
Vào cuồi năm 1929, ở Việt Nam xuất hiện ba tổ chức cộng sản, cùng với nó cũng xuất hiện nguy cơ chia rẽ, mất đoàn kết, vì vậy để phong trào tiếp tục phát triển cần phải tập hợp lực lượng và có một tổ chức cộng sản chân chính đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đầu tháng 1-1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản tại Hương Cảng – Trung Quốc. Hội nghị đã nhất trí thành lập một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam chấm dứt thời kỳ dài khủng hoảng về đường lối lãnh đạo và giai cấp lãnh đạo ở nước ta.
Tháng 10-1930 đã diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của cách mạng Việt Nam và phong trào thanh niên nước ta, đó là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất thảo luận và thông qua nhiều văn kiện lớn có ý nghĩa lịch sử, trong đó có Án Nghị quyết về Cộng sản Thanh niên vận động của Trung ương toàn thể hội nghị, đã nêu bật: “…Đảng Cộng sản phải cần kíp công tác trong quần chúng thanh niên;… phải kéo họ ra khỏi ảnh hưởng quốc gia, phong kiến, đế quốc. Muốn được như vậy thì có tổ chức ra một đoàn thể của thanh niên mới được” . Đồng thời, Nghị quyết cũng khẳng định: “Việc tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn là một việc cần kíp của Đảng… phải làm cho hết thảy đảng viên hiểu rằng công việc Thanh niên Cộng sản Đoàn là một việc cần kíp của Đảng… phải làm cho hết thảy đảng viên hiểu rằng công việc Thanh niên Cộng sản Đoàn là một việc cần kíp – quan trọng như việc của Đảng vậy” . Từ đó, Đảng chỉ thị “… thanh niên phải có một đoàn thể độc lập, có cơ quan chỉ huy riêng…” .
Thực hiện Án Nghị quyết tháng 10-1930 về công tác của Hội nghị lần thứ nhất, các cơ sở Đoàn được xây dựng trên khắp cả nước, từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, hệ thống tổ chức của Đoàn vẫn chưa được thống nhất và Đoàn chưa có sinh hoạt riêng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai tại Sài Gòn từ ngày 20 đến ngày 26-3-1931 dưới sự chủ trì của đồng trí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng – đã dành nhiều thời gian về công tác xây dựng Đảng và xây dưng Đoàn. Trên cơ sở nghiên cứu bức thư của Ban Chấp hành Quốc tế Thanh niên Cộng sản gửi cho Đảng ta, Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết lần thứ nhất (10-1930) trong đó nêu rõ: “Tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn là nhiệm vụ thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp là một vấn đề cần kíp mà Đảng phải giải quyết. Tuy nhiên hiện đến nay không ở đâu tiến lên được bước vào. Trái lại thái độ trong Đảng lại rất lãnh đạm hững hờ về vấn đề Đoàn lắm” . Từ đó, trong Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Hội nghị lần thứ hai, phần Nhiệm vụ cần kíp đã ghi rõ: “Cần kíp tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn, Đảng cần kíp đánh tan cái thái độ hững hờ lãnh đạm với vấn đề đó. Lập tức các Đảng bộ địa phương phải mau mau tổ chức những ủy viên tổ chức ra Đoàn, đốc xuất cho chi bộ tổ chức;… Đảng bộ các địa phương phải gây ra cơ sở của Đoàn…” .
Là người theo dõi sát sao tình hình xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Đoàn, trong thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 20-4-1931 Nguyễn Ái Quốc đề nghị: “Đảng phải… Trước tiên phải thống nhất tổ chức Thanh niên và Công hội và những tổ chức đó phải có sinh hoạt độc lập của mình” .
Đến tháng 3-1931, sau một quá trình chuẩn bị lâu dài, gian khổ được sự tổ chức, lãnh đạo của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như sự trực tiếp đào tạo bồi dưỡng và tổ chức lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, tổ chức thanh niên cơ sở ở nước ta “từ bước đầu hiếm hoi” với một nhóm nhỏ 8 thiếu niên đầu tiên do Bác Hồ trực tiếp chăm sóc, dìu dắt, sau 5 năm đã phát triển và trưởng thanh vượt bậc. Lúc này, trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam của nước ta đã xuất hiện nhiều tổ chức Đoàn cơ sở với hơn 1.500 đoàn viên ở một số địa phương đã hình thành hệ thống tổ chức Đoàn từ xã, huyện lên đến tỉnh, dần trở thành một lực lượng hùng hậu, là đội dự bị tin cậy của Đảng cùng các tổ chức quần chúng khác cống hiến hết mình trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc và xây dựng Tổ quốc Việt Nam vinh quang.
Căn cứ những tư liệu chứng cứ lịch sử theo đề nghị của tuổi trẻ cả nước và Ban Bí thư Trung ương Đoàn, được sự đồng ý của Bộ Chính trị và Bác Hồ kính yêu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đoàn (tháng 3-1961) đã ra Nghị quyết lấy ngày 26-3-1931, một trong những ngày cuối cùng của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai họp tại Sài Gòn do Tổng Bí thư Trần Phú chủ trì bàn về công tác xây dựng Đoàn làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn. Ngày 26-3 hàng năm đã đi vào lịch sử vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Việt Nam.
3. Khái quát quá trình phát triển của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ khi ra đời đến nay
a) Các tên gọi của tổ chức Đoàn qua các thời kỳ
– Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1931-1936);
– Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương (1936-1939);
– Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương (1939-1941);
– Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam (1942-1956);
– Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (1956-1970);
– Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh (1970-1976);
– Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1976 dến nay);
b) Các kỳ Đại hội của Đoàn
– Đại hội I (từ ngày 7-2 đến ngày 14-2-1950) tại Cao Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
– Đại hội II (từ ngày 25-10 đến ngày 4-11-1956) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội III (từ ngày 23-3 đến ngày 25-3-1961) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội IV ( từ ngày 20-11 đến ngày 22-11-1976) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội V (từ ngày 27-11 đến ngày 30-11-1987) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội VI (từ ngày 1-10 đến ngày 18-10-1992) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội VII (từ ngày 27-11 đến ngày 29-11-1997) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội VII (từ ngày 7-12 đến ngày 11-12-2002) tại Thủ đô Hà Nội.
– Đại hội IX (từ ngày 17-12 đến ngày 21-12-2007) tại Thủ đô Hà Nội.
c) Các phong trào tiêu biểu qua các kỳ Đại hội
* Trong nhiệm kỳ Đại hội I (1950-1956):
– Phong trào tòng quân, giết giặc lập công, tham gia dân quân du kích.
– Phong trào chống địch bắt lính.
– Phong trào thi đua sản xuất trong nông nghiệp và ngành công nghiệp.
– Phong trào thi đua lập công trong các lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong.
* Trong nhiệm kỳ Đại hội II (1956-1961):
– Phong trào Đoàn tham gia công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; chi viện cho miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
– Phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang của thanh niên miền Nam chống Mỹ, ngụy và bè lũ tay sai.
* Trong nhiêm kỳ Đại hội III (1961-1980):
– Phong trào “Thi đua tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất” (1961-1965).
– Phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên miền Bắc (1965-1975).
– Phong trào “Năm xung phong” trong thanh niên miền Nam (1965-1975).
– Phong trào “Quyết thắng” trong thanh niên miền Nam (1965-1975 và 1975-1980).
– Phong trào lao động tình nguyện xây dựng Tổ quốc và lao động tình nguyện vượt mức kế hoạch khu vực sản xuất (1975-1980).
– Phong trào học tập trong các tầng lớp thanh niên. Riêng trong các trường học là xây dựng “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa” (1975-1980).
– Phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể” (tháng 1/1978 – 1980).
– Cuộc vận động “Ba mũi tiến công chống tiêu cực” và “Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng” (1978-1980).
– Phong trào “Thanh niên xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (1979-1980).
* Trong nhiệm kỳ Đại hội VI (1980-1987):
– Ba chương trình hành động cách mạng của Đoàn (5-1982 – 12-1983):
+ Chương trình tuổi trẻ đẩy mạnh sản xuất lương thực.
+ Chương trình tuổi trẻ thực hành tiết kiệm.
+ Chương trình tham gia giải quyết việc làm cho thanh niên.
– Năm chương trình hành động cách mạng của tuổi trẻ (1-1984 – 11-1987):
+ Chương trình học tập – rèn luyện xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
+ Chương trình tuổi trẻ xung kích đẩy mạnh sản xuất lương thực và phát triển nông nghiệp toàn diện.
+ Chương trình tuổi trẻ lao động sáng tạo, tiết kiệm và giải quyết việc làm cho thanh niên.
+ Chương trình tuổi trẻ xung kích trên mặt trận an ninh bảo vệ Tổ quốc.
+ Chương trình tuổi trẻ xung kích trên mặt trận cải tạo xã hội chủ nghĩa và phân phối lưu thông.
* Trong nhiệm kỳ Đại hội V (1987-1992):
– Tiếp tục phát triển phong trào “Tuổi trẻ xung kích, sang tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, tập trung thực hiện bốn chương trình:
+ Tuổi trẻ xung kích sáng tạo trên mặt trận kinh tế, thực hiện thắng lợi ba chương trình, mục tiêu về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
+ Tuổi trẻ đi đậu thực hiện các chính sách xã hội và đấu tranh cho công băng xã hội.
+ Tuổi trẻ xung kích trên mặt trận quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
+ Tuổi trẻ học tập và tiến quân vào khoa học kĩ thuật.
* Trong nhiệm kỳ Đại hội VI(1992-1997):
– Thực hiện bốn chương trình hành động:
+ Chương trình thanh niên làm kinh tế, tham gia giải quyết việc làm.
+ Chương trình thanh niên tham gia bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
+ Chương trình học tập, sáng tạo, tích cực tham gia phát triển văn hóa – xã hội.
+ Chương trình xây dựng Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
– Phát động hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “ Tuổi trẻ giữ nước” (Tháng 2-1993).
* Trong nhiêm kỳ Đại hội VII (1997-2002): Tiếp tục duy trì và phát triển nâng cao hai phong trào: “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”.
* Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII (2002-2007):
– Phát động phong trào thi đua “Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” với các nội dung:
+ Thi đua học tập, tiến quân vào khoa học – công nghệ.
+ Thi đua lập nghiêp, lao động sáng tạo.
+ Tình nguyện gì cuộc sống cộng đồng.
+ Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
* Từ Đại hội IX (2007- đến nay):
– Phát động hai phong trào lớn: “5 xung kích phat triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “ 4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”.
+ 5 xung kích:
Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế – xã hội.
Xung kích, tình nguyên gì cuộc sống cộng đồng.
Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Xung kích thực hiện cải cách hành chính.
Xung kích trong hội nhập quốc tế.
+ 4 đồng hành:
Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ.
Đồng hành vời thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm.
Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn hóa tinh thần.
Đồng hành với thanh niên trong phát triển kỹ năng xã hội.
d) Các đồng chí Bí thư thứ nhất của Đoàn qua các thời kỳ:
Đồng chí Nguyễn Lam
 
Tại Đại hội Xứ đoàn Thanh niên cứu quốc Bắc Bộ ngày 25-11-1945, đồng chí được bầu làm Bí thư Xứ đoàn. Tại hội nghị Thanh vận của Đảng (tháng 6-1949) họp tại Việt Bắc, đồng chí Nguyễn Lam được Đảng điều động về làm Trưởng Tiểu ban Thanh vận Trung ương, đồng thời là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn. Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ I (tháng 2-1950), đồng chí được bầu làm Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc Viêt Nam. Đại hội II (tháng 11-1956), đồng chí được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Cháp hành Trung ương Đoàn. Sau Đại hội III (tháng 3-1961), đồng chí được Đảng điều động đi làm nhiệm vụ mới.
Đồng chí Vũ Quang
 
Đồng chí Vũ Quang được cử làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, thay cho đồng chí Nguyễn Lam chuyển công tác, từ sau Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (tháng 3-1961) đến Đại hội IV của Đoàn (tháng 11-1980).
Đồng chí Đặng Quốc Bảo
 
Được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IV (tháng 11/1980). Tháng 5-1982, đồng chí được Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Vũ Mão
 
Được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn  tại Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ 4 khóa IV (5-1982) đến Đại hội V của Đoàn (tháng 11-1987).
Đồng chí Hà Quang Dự
 
Được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn tại Đại hội V của Đoàn (tháng 11/1987) đến Đại hội VI của Đoàn (tháng 10/1992).
Đồng chí Hố Đức Việt
 
Được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn tại Đại hội VI của Đoàn (tháng 10/1992). Tháng 12/1996, đồng chí được Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Vũ Trọng Kim
 
Được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn tại Hội nghị Ban Chấp hành thứ 9 khóa VI (tháng 12-1996). Đầu năm 2001, đồng chí được Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Hoàng Bình Quân
 
Được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn tại Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 9 khóa VII (tháng 6-2001), được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn tại Đại hội Đoàn lần thứ VIII (12-2002). Đầu năm 2005, đồng chí được Đảng phân công nhiệm vụ mới.
Đồng chí Đào Ngọc Dung
 
Ngày 1-4-2005, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Quyết định phân công đồng chí Đào Ngọc Dung giữ trách nhiệm Quyền Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đoàn lần thứ 10 khóa VIII (2-7-2005), đồng chí Đào Ngọc Dung được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn. Tháng 8-2006, đồng chí được Đảng phân công nhận nhiệm vụ mới.
Đồng chí Võ Văn Thưởng
 
Được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đoàn lần thứ 11 khóa VIII (13-1-2007) và được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX (tháng 12-2007).
II- KHÁI  NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (thông qua tại Đại hội Đoàn lần thứ IX, tháng 12-2007) nêu rõ: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niênViệt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn chủ, văn minh” .
2. Vị trí, vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tập thể lao và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là người lãnh đạo, định hướng phát triển cho toàn xã họi. Nhà nước giữ vai trò là người quản lý, điều hành xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Mối quan hệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị được thể hiện ở các nội dung cơ bản:
a) Thứ nhất, mối quan hệ của Đoàn đối với Đảng
Đoàn là đội dự bị tin cậy của Đảng, là người kế tục trung thành sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Đảng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Tổ chức Đoàn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Mục tiêu, lý tưởng của Đoàn chính là phấn đấu, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Đảng định hướng chính trị cho mọi hoạt động, nguyên tắc tổ chức của Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi. Đảng chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ trẻ có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho Đảng. Đoàn tham mưu, đề xuất với Đảng về những vấn đề liên quan đến thanh niên và công tác thanh thiếu nhi, tham gia xây dựng, bảo vệ và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, đóng góp ý kiến cho đảng viên và sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.
Mối quan hệ giữa Đảng và Đoàn là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng có tác động qua lại. Đảng có vững mạnh, kiên cường mục tiêu, lý tưởng cách mạng thì Đoàn mới có điều kiện phát triển thuận lợi và ngược lại, tổ chức Đoàn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức sẽ đem lại sức sống, bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng. Phải coi công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn là bộ phận hữu cơ, tất yếu và đi trước một bước trong công tác xây dựng Đảng theo đúng tinh thần Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25-7-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa là các cấp ủy Đảng và đảng viên cần nhận thức đầy đủ và thực hiện quan điểm của Đảng: “Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước”, là quá trình xây dựng và chuẩn bị đội dự bị tin cậy bổ sung lực lượng cho Đảng.
b) Thứ hai, mối quan hệ của Đoàn với Nhà nước
Tổ chức Đoàn chịu sự quản lý chung của Nhà nước đối với toàn bộ xã hội, mọi hoạt động của Đoàn nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thông qua hệ thống tổ chức, bộ máy chính quyền các cấp ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện Luật Thanh niên (được Quốc hội thông qua tháng 11-2005 và có hiệu lực từ tháng 7-2006). Nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách liên quan đến thanh niên, tạo điều kiện cho các tổ chức của thanh niên phát huy hết khả năng, năng lực của tuổi trẻ để cống hiến, xây dựng đất nước. Nhà nước đảm bảo nguồn kinh phí, phương tiện làm việc và hoạt động cho Đoàn.
Đoàn thanh niên là chỗ dựa vững chắc, tham gia đóng góp, xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân các cấp; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động đoàn viên, thanh niên xung phong, tình nguyện đi đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trực tiếp tham gia có hiệu quả vào sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đoàn tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, thông qua hệ thống tổ chức Đoàn các cấp từ Trung ương đến cơ sở để đề cử những đại biểu ưu tú nhất đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của tuổi trẻ vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Vận động, tuyên truyền, giáo dục đoàn viên trở thành những công dân tốt, gương mẫu, có ích cho xã hội; tích cực, tự giác thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ công dân; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Đối với các ban, ngành, tổ chức Đoàn phối hợp, liên kết hoạt động trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, dựa trên đường lối, quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về công tác thanh niên, tạo sức mạnh đồng bộ trong công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên.
c) Thứ ba, đối với các tổ chức là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Đoàn tích cực, chủ động liên kết, phối hợp hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, nhằm quy tụ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh thiếu niên. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – một liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp, xây dựng lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận, góp phần thực hiện chiến lượt đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
d) Thứ tư, đối với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
Đảng trực tiếp giao cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách, dìu dắt, giáo dục thiếu niên nhi đồng. Tại chương IX. Điều lệ Đoàn ghi rõ: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy và phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất nước. Ban Chấp hành Đoàn các cấp có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, phối hợp với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế – xã hội, chăm lo, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động của Đội.
3. Tính chất cơ bản của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có các tính chất cơ bản sau:
a) Tính chính trị
Tổ chức Đoàn do Đảng và Bác Hồ sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, do đó, Đoàn lấy mục tiêu lý tưởng của Đảng làm mục tiêu phấn đấu của tổ chức mình. Mục tiêu tổng quát đó đã được thông qua tại Đại hội X của Đảng (2006) là phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Là thành viên của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng, phấn đấu và trưởng thành mỗi bước đi của Đoàn đều có sự lãnh đạo, dìu dắt của Đảng. Do đó, giữa tổ chức Đoàn với Đảng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ, không thể tách rời: đó là sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng cả trên phương diện tư tưởng, chính trị và tổ chức đối với Đoàn Thanh niên.
Đảng đưa ra Cương lĩnh, chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển đất nước và hoạch định chiến lược công tác cán bộ cho cả hệ thống chính trị, được cụ thể hóa vào Hiến pháp và pháp luật thành những điều luật cụ thể để mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội thực hiện dưới sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước. Do đó, Đoàn Thanh niên phải là lực lượng xung kích đi đầu thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và hành động: đồng thời đứng vững trên lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình là những vấn đề cốt lõi, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Vì vậy, tổ chức Đoàn với tư cách là tổ chức quần chúng gần Đảng nhất, là đội dự bị tin cậy của Đảng cũng đứng vững trên những quan điểm, lập trường nguyên tắc cơ bản trong quá trình tổ chức và hoạt động của tổ chức mình.
b) Tính tiên tiến
Với tư cách là đội dự bị tin cậy của Đảng là chủ tương lai của nước nhà, mỗi đoàn viên của Đoàn là những hạt nhân nồng cốt trong một sinh hoạt, công tác, hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và phong trào thanh thiếu nhi. Tính tiên tiến thể hiện trước hết ở tinh thần: đâu Đảng, Tổ quốc cần thanh niên có; việc gì khó thanh niên làm với quyết tâm là hăng say của tuổi trẻ nguyện làm theo lời Bác dạy:
Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.
Tính tiên tiến thể hiện ở ngay mục tiêu lý tưởng của Đoàn ngay trong hành động, việc làm của mỗi đoàn viên, thanh niên, nói đi đôi với làm, học đi đôi với hành; đồng hành cùng thanh niên trong mọi lĩnh vực hoạt động, tiên tiến trong học tập vì ngày mai lập thân, lập nghiệp. Tính tiên tiến còn là xung phong, xung kích, tình nguyện, tự nguyện, tự giác trong tất cả các hoạt động của tổ chức Đoàn, Hội, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Tính tiên tiến còn thể hiện trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc và kế tục truyền thống cách mạng của các thế hệ cha ông đi trước; dám đương đầu đấu tranh với các quan điểm sai trái, đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc; kiên quyết bảo vệ Đảng, chính quyền và tư tưởng Hồ Chí Minh; bênh vực, bảo vệ chân lý, chống lại những thói hư, tật xấu trong xã hội, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh thiếu nhi.
Mặt khác, tính tiên tiến còn phải được thể hiện rõ nét trong công tác tuyên truyền, phổ biến và bảo vệ pháp luật, chấp hành nghiêm pháp luật, trong đó liên quan trước hết đến lĩnh vực: văn hóa giao thông, văn hóa công sở, văn hóa giao tiếp, ứng xử và cải cách hành chính…
c) Tính quần chúng (xã hội)
Thanh niên là lực lượng to lớn trong xã hội, luôn chiếm tỉ lệ bình quân khoảng 1/3 dân số (hiện nay dân số Việt Nam khoảng 86 triệu người), do đó tỷ lệ thanh niên có mặt trong các giai tầng của xã hội là rất lớn. Song phải khẳng định rằng, thanh niên có vị trí, vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế – chính trị, an ninh quốc phòng. Ở đâu có thanh niên, ở đó có sự định hướng chính trị, giúp đỡ, tư vấn, đồng hành cùng thanh niên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam.
Tính quần chúng của công tác Đoàn thể hiện rất rõ ở những hoạt động của công tác Đoàn, Hội và phong trào thanh thiếu niên. Những hoạt động đó không chỉ lan tỏa đến những đoàn viên, hội viên mà còn ảnh hưởng đến cả những thanh niên chưa có điều kiện trở thành đoàn viên, hội viên.
Tính quần chúng còn được thể hiện ở chỗ Đoàn là thành viên tập thể của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, đóng vai trò nồng cốt, định hướng chính trị cho hoạt động của Hội. Đoàn có mối quan hệ phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và xã hội nghề nghiệp… để tạo nguồn lực, điều kiện, góp phần cho các hoạt động.
III- CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy, đội xung kích cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức do Đảng, Bác Hồ trực tiếp, sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến tự nguyện phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng, đó là những đoàn viên cộng sản trẻ tuổi, nguồn bổ sung quan trọng bảo đảm cho Đảng phát triển không ngừng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên Đảng trực tiếp giao cho Đoàn giáo dục, giúp đỡ những thanh niên tiên tiến trở thành đoàn viên, từ những đoàn viên ưu tú trở thành đảng viên. Vì vậy, Đoàn Thanh niên là một trong những tổ chức gần Đảng nhất.
Đoàn tuyên truyền giáo dục, giới thiệu để thanh niên nhận thức và hiểu sâu sắc về Đảng, đóng góp ý kiến cho Đảng, phê bình cán bộ, đảng viên, tích cực tham gia cuộc vận động xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đoàn bồi dưỡng những cán bộ đoàn viên xuất sắc để bổ sung vào đội ngũ cán bộ cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đoàn Thanh niên là đội quân xung kích cách mạng của Đảng, đi đầu trong mọi khó khăn trên mọi lĩnh vực kinh tế – chính trị, văn hóa – xã hội. Ngày nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đoàn càng thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ của mình trong động viên đông đảo đoàn viên thanh niên phát huy vai trò xung kích sáng tạo, đi đầu trong phát triển kinh tế – xã hội, phấn đấu vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, là đội quân xung kích cách mạng, là nơi bổ sung nguồn sinh lực mới quan trọng cho Đảng.
2. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên; là người đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tuổi trẻ
Là tổ chức chính trị – xã hội, là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, vì thanh niên. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục đổi mới toàn diện, phấn đấu thực sự trở thành người bạn thân thiết của thanh niên, định hướng cho thanh niên đến với lý tưởng cách mạng và những giá trị cao đẹp, đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp, xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Muốn làm tốt chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, là người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tuổi trẻ thì tổ chức Đoàn cần quan tâm một số vấn đề sau:
Một là, tạo môi trường giúp thanh niên phát huy vai trò xung kích trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; tổ chức các phong trào, các cuộc vận động và các hoạt động hướng tới mục tiêu đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên, tạo môi trường lành mạnh, an toàn cho thanh niên rèn luyện và tự khẳng định, vì sự tiến bộ của thanh niên đối với sự phát triển của đất nước.
Hai là, đa dạng hóa các hình thức giáo dục, góp phần để mỗi bạn trẻ hướng đến những gia trị cao đẹp, sống có ích và có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội; tổ chức thực hiện hiệu quả các cuộc vận động: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” gắn với triển khai sâu rộng chương trình “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tạo sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức và việc làm của mỗi đoàn viên thanh niên; chú trọng phát hiện, xây dựng, tuyên dương các tập thể, cá nhân điển hình; tổ chức nhân rộng, để các điển hình tỏa sáng trong các tập thể thanh niên, đem đến cho nhiều bạn trẻ niềm tin và hoài bão vươn lên khẳng định bản thân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, đổi mới nâng cao chất lượng các phong trào hành động cách mạng, góp phần đáp ứng nhu cầu lợi ích chính đáng của thanh niên, vì sự tiến bộ của thanh niên, vì sự phát triển của đất nước; hỗ trợ thanh niên học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ; tư vấn hướng nghiệp, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần; phát triển kỹ năng xã hội, đồng thời tạo môi trường để thanh niên phát huy tiềm năng của mình.
Bốn là, tổ chức cho thanh niên tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã hội; chủ động đảm nhận các việc khó, việc mới, các công trình, phần việc thanh niên; đi đầu thực hiện các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn giao thông; cổ vũ trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển kinh tế nông thôn, miền núi.
3. Những truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Một là, truyền thống yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống quý báo này đã tạo nên động lực tonh thần vô giá xuyên suốt các thời kỳ lịch sử được thể hiện trong các hành động cách mạng, nhất là ở những bước ngoặt lịch sử suốt 80 năm qua.
Hai là, truyền thống của đội quân xung kích cách mạng, dám đón lấy những nhiệm vụ nặng nề, dám đi đến nơi khó khăn gian khổ, dám suy nghĩ sáng tạo… để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thực hiện lời Bác Hồ dạy: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên đi đầu”, thế hệ trẻ nước ta luôn nêu cao tinh thần hăng hái, sẵn sàng xung phong đi đến nơi Tổ quốc cần, dù đó là biên cương hay hải đảo, dù công việc đó là mới mẻ hay khó khăn.
Ba là, truyền thống gắn bó đoàn kết trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ chức Đoàn và Hội; đoàn kết gắn bó với nhân dân; thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn, đặc biệt là vào những thời điểm phải đối mặt với kẻ thù hay thiên tai. Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế luôn hòa quyện vào nhau, thông cảm và đồng tâm hiệp lực vì những mục tiêu cao cả của dân tộc và thời đại.
Bốn là, truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, quản lý và quân sự…say mê sáng tạo trong hoạt động thực tiễn để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng. Học ở nhà trường, học trong cuộc sống, học để làm người có ích cho xã hội, luôn được các thế hệ thanh niên ta phấn đấu, thực hiện ngày càng tốt hơn.
Phát huy những truyền thống quý báu đó, các thế hệ đoàn viên, thanh niên Việt Nam tiếp bước cha anh góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt được những thành tích vẻ vang, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.