“Đẻ thuê” là gì? “Đẻ thuê” có hợp pháp hay không?
Tôi muốn tìm người đẻ thuê, vậy đẻ thuê có hợp pháp hay không?
Cụ thể là vợ chồng tôi kết hôn đã lâu nhưng mãi vẫn chưa có con, đi khám thì bác sĩ thông báo vợ tôi bị vô sinh. Do đó, chúng tôi muốn tìm người đẻ thuê. Xin hỏi việc đẻ thuê có hợp pháp hay không? Nếu việc “đẻ thuê” trái pháp luật vậy làm thế nào để nhờ người khác sinh con mà vẫn mang gen của vợ chồng tôi mà vẫn hợp pháp?
“Đẻ thuê” là gì?
Đẻ thuê được hiểu đơn giản là việc một người phụ nữ mang thai và sinh con cho người khác. Đẻ thuê được xem là một hình thức biến tướng của mang thai hộ. Hiện nay, việc đẻ thuê trở thành một nghề nghiệp khi một bên dùng tiền hoặc lợi ích khác để trả cho bên còn lại nhằm mục đích mua lấy thời gian và công sức bỏ ra trong quá trình mang thai và sinh em bé.
Theo pháp luật Việt Nam, tại khoản 23 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 giải thích về việc mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau:
“Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác”
Giải thích này mang nghĩa giống với cụm từ “đẻ thuê”. Tức là một bên dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích khác để trao đổi, mua lấy việc bên còn lại mang thai và sinh con cho mình.
Đẻ thuê
Tải trọn bộ các văn bản về Đẻ thuê hiện hành: Tải về
“Đẻ thuê” có hợp pháp hay không?
Căn cứ khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các hành vi bị cấm nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình cụ thể:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.”
Trong đó, hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại là một trong các hành vi bị cấm.
Đồng thời, tại Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015 quy định hình phạt đối với tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, cụ thể:
“Điều 187. Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại
1. Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Như vậy, mang thai hộ vì mục đích thương hay được gọi là “đẻ thuê” là hành vi bất hợp pháp. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật Việt Nam.
Làm thế nào để “đẻ thuê” không trái luật?
Theo khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 giải thích về việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:
“Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.”
Tức là, vì mục đích nhân đạo mà một người phụ nữ tự nguyện, không vì tiền hay bất kỳ lợi ích nào khác, chỉ vì muốn giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con thì hành vi này hợp pháp và được pháp luật Việt Nam thừa nhận, quy định từ Điều 94 đến Điều 100 trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Từ bài viết trên, nếu vợ chồng bạn không thể mang thai và sinh con thì có thể áp dụng biện pháp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đảm bảo đáp ứng đủ, đúng các điều kiện và thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mà Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định.