Đề tài: Tài phán hành chính Việt nam

Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Đề tài: Tài phán hành chính Việt nam

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.

1. Lý do làm đề tài.

2. Ý nghĩa.

3. Phân tích đối tượng và phạm vi, mục đích để nghiên cứu.

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.

1. 1 Khái quát chungvề Tài phán hành chính và vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền.

1. 1. 1 Khái niệm Tài phán hành chính.

1. 1. 1. 1 Khái niệm Tài phán .

1. 1. 1. 2 Khái niệm Tài phán hành chính.

1. 1. 2 Vai trò và vị trí của Tài phán trong bộ máy Nhà nước.

1. 2 Một số cơ quan Tài phán hành chính trên Thế giới.

1. 2. 1. 1 Hệ thống Tài phán hành chính Anh – Mỹ.

1. 2. 1. 2 Hệ thống Tài phán hành chính Pháp.

1. 2. 2 Tổ chức cơ quan Tài phán hành chính ở một số nước trên thế giớí.

1. 2. 3 Quan điểm về Tài phán hành chính ở các nước XHCN

1. 2. 3. 1 Nhà nước thống nhất phân công quyền lực giữa quyền lập pháp hành pháp tư pháp .

1. 2. 3. 2 Thiết lập Tài phán hành chính , một thiết chế quan trọngtrong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền.

1. 3 Nghành Tài phán hành chính ở Việt nam.

1. 3. 1 Khiếu nại tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt nam.

1. 3. 2 Việc thiết lập cơ quan Tài phán hành chính:

CHƯƠNG II: CƠ CẤU, TỔ CHỨC VÀ ĐỐI TƯỢNG, THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.

– Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Tài phán hành chính.

– Tổ chức hoạt động của toà án tối cao ở Việt nam.

+ Cấp quận huyện.

+ Cấp thành phố.

+ Cấp Toà án tối cao.

– Thẩm quyền xét xử.

– Các giai đoạn, thủ tục về toà án hành chính.

CHƯƠNG III. NHỮNG VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM.

+ Nêu mở rộng một số thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo

+ Hoàn thiện Pháp luật hành chính

+ Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ thẩm phán hành chính

+ Cải cánh cách thức tổ chức xét xử hành chính

 

 

PHẦN MỞ ĐẦU.

1. Tính cấp bách của đề tài

Từ những năm 1990 trở lại đây, từ khi Việt nam mở cửa hội nhập Thế giới thì tình hình kinh tế và mọi mặt của đời sống nâng cao. Thế giới Nhất là ý thức về mặt Pháp luật được nâng cao rõ rệt. Trên tinh thần đổi mới đó Đảng và Nhà nước ta thông qua quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản Pháp luật quan trọng và có tính thiết yếu để thiết lập Tài phán hành chính góp phần ngày càng hoàn thiện các chế định giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của Nhân dân . Ngay từ nghị quyếtVIII của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, một vấn đề mới, cấp bách đã được đặt ra: Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện hành chính và xúc tiến việc thiết lập hệ thống toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với quyết định hành chính.

Trong các văn bản đều mang tính tập trung liên quan trức tiếp đến hoạt động tổ chức của Tài phán hành chính và xác định lại thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính được ghi nhận trong luật khiếu kiện tố cáo, năm 1998 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 và được bổ sung sửa đổi năm 1998.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định: củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định thẩm quyền xét xữ của toà án.

Do đó Tài phán hành chính là một vấn đề hết sức mới mẻ, từ chỗ Tài phán còn rất xa lạ nhưng đến nay vấn đề Tài phán hành chính đã được tiếp cận. Vì vậy toà hành chính đã được thành lập và đi vào hoạt động ở các Toà án. nhưng xung quanh vấn đề hoàn thiện Pháp luật về Tài phán hành chính ở Việt nam luôn luôn được sự quan tâm bởi các cấp các nghành, trong giới luật gia, các nhà nghiên cứu khoa học quản lý và pháp lý. Chính vì vậy, để nhận thức và nêu rõ tầm quan trọng của Tài phán hành chính và đề tài : Tài phán hành chính ở Việt nam được chọn làm đối tượng nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp này.

2. Mục đích để nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.

 Mục đích của việc thực hiện khoá luận như sau:

– Thứ 1: Hệ thống, tổng hợp cơ sở lý luận về Tài phán hành chính ở Việt nam.

– Thứ 2: Nghiên cứu nội dung, tính chất của Tài phán hành chính Việt nam.

– Thứ 3: Những phương hướng , đề xuất nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức về mặt Pháp luật về Tài phán hành chính Việt nam.

Từ những mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận này là tập trung để giải quyết những vấn đề sau:

– Trên cơ sở lý luận qua các khái niệm quan điểm khoa học về Tài phán hành chính để làm cơ sở và xây dựng và thiết lập lên 1 cơ quan Tài phán hành chính ở Việt nam.

– Nêu rõ cơ cấu, tổ chức hoạt động xét xử.

– Nêu rõ và phân tích những đối tượng khiếu kiện và thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính Việt nam. Như vậy ta đối chiếu từ những thực trạng giải quyết khiếu kiện hành chính trong những năm qua để thấy được những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót về mặy pháp lý nói chung tổ chức thực hiện Tài phán hành chính nói riêng.

– Trên cơ sở phân tích thực trạng của Tài phán hành chính có những điềm tích cực và những hạn chế trong công việc tổ chức và hoạt động.

– Qua đó khoá luận có nhiệm vụ nêu ra một số phương hướng đổi mới hoàn thiện và này càng được hoàn thiện trong công tác tổ chức góp phần tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyềnViệt nam xã hội chủ nghĩavà dân chủ hoá đời sống Nhà nước, xã hội.

 3. Ý nghĩa .

Từ cơ sở ly luận và thực tiễn đựơc trình bày trong khoá luận bước đầu là tổng quát những vấn đề cần thiết đề cập đến để hoàn thiện Pháp luật, hoàn thiện thể chế về Tài phán hành chính trong đó toà án với tư cách là một thiết chế quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp trong hệ thống quyền lực Nhà nước). Toà án là công cụ tối ưu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, việc xác định phạm vi quyết định hành chính và hành vi hành chính thuộc đối tượng xét xử của toà án là có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn trong công việc đấu tranh phòng ngừa cac vi phạm Pháp luật bảo vệ quyền, tư do và lợi ích hợp pháp của công dân.

          Vì vậy, khoá luận góp phần nhằm làm sáng tỏ các quan điểm của Nhà nước và Pháp luật đối với sự phát triển của đất nước và tiến bộ của toàn xã hội đặc biệt làm rõ vị trí, vai trò của Nhà nước với tư cách là công cụ chủ yếu thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân và là công cụ chủ yếu bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền tư do, lợi ích của công dân. Khoá luận cũng đóng góp quan trọng vào công cuộc cải cách thủ tục hành chính, cải cách nền hành chính Nhà nước của dân – do dân- dân vì theo định hướng Xã hội chủ nghĩa

 

 

CHƯƠNG I.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH

 Ở VIỆT NAM.

1. 1 Tài phán hành chính và những vấn đề xây dựng một Nhà nước pháp quyền.

1. 1. 1 Khái niệm về Tài phán hành chính.

1. 1. 1. 1 Quan điểm về Tài phán .

Tài phán được hiểu theo nghĩa hẹp là toàn bộ các vụ kiện tụng và xét xử về đối tượng nào đó như Tài phán hình sự, Tài phán hành chính, Tài phán kinh tế. . . Việc thành lập toà án hành chính trong toà án Nhân dân là đáp ứng nhu cầu phù hợp với hiện nay.

Tài phán theo nghĩa rộng có nghĩa là tổng thể những quyền hạn của toà án hoặc cơ quan hành chính trong đó có việc giải quyết những tranh chấp và áp dụng những chế tài theo luật định. Trong khoa học pháp lý quốc tế cũng thường sử dụng khái niệm: quyền Tài phán quốc gia đối với những sự kiện trên biển, trên không và trên đất liền, tòa án quốc tế ( Vd: Toà án la hay ). Nhưng nhìn chung cơ quan Tài phán điền hình nhất là hoạt động xét xử của toà án.

Trên cơ sở hoạt động của Tài phán là khi phát hiện ra hành vi vi phạm Pháp luật hoặc có dấu hiệu cho rằng hành vi đó là vi phạm Pháp luật và các tranh chấp pháp lý, giữa các chủ thể khi tham gia vào đời sống Pháp luật của Nhà nước.

Sự xuất hiện các cơ quan Tài phán và hoạt động Tài phán gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và Pháp luật. Vì vậy Tài phán hành chính là sự kết hợp giữa công quyền và pháp lý. Qua đó các cơ quan thức hiện chức năng Tài phán nhân danh quyền lực Nhà nước dựa trên cơ sở lấy các quy định của Pháp luật là căn cứ để phán xử một vụ việc nào đấy. Sự phán quyết của các cơ quan Tài phán chỉ được đưa ra sau khi đã xem xét trên thực tế cho rằng hành vi đó vi phạm Pháp luật, các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể với nhau khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ Pháp luật trước khi phán xử xem xét, kiểm tra đánh giá một vụ việc nào đó trên cơ sở tuân thủ các quy định Pháp luật.

Trên cơ sở phân tích Tài phán là một hoạt động mang tính quyền lực và khi phán quyết của các hành vi của chủ thể trong quan hệ Pháp luật nhằm xác định dấu hiệu pháp lý cảu một vấn đề cụ thể dẫn tới mối quan hệ nhân quả làm phát sinh thay đổi, chấm dứt các quan hệ Pháp luật.

Chính vì vậy, hoạt động Tài phán và cơ quan Tài phán ngày càng củng cố hoàn thiện dần dần. Khi mà đời sống Pháp luật của Nhà nước cần đến sự công bằng và dân chủ, khách quan.

1. 1. 1. 2 khái niệm Tài phán hành chính.

Tài phán hành chính là toàn bộ những quy định về tổ chức, hoạt động xét xử những vi phạm Pháp luật hành chính với chức năng kiểm tra bảo vệ quyền lợi của công dân và công chức trước những hoạt động của các cơ quan và các nhà chức trách hành chính. Đó là phương hướng đảm bảo thể chế kỷ luật trong nền hành chính Nhà nước, là biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu hoạt động với cơ quan hành chính công chức, viên chức tránh các hiện tượng lạm quyền, lộng quyền loại trừ những tiêu cực cửa quyền quan liêu trong bộ máy hành chính. Vì vậy Tài phán hành chính trước hết là 1 trong những phương thức bảo đảm sự tuân thủ Pháp luật của các chủ thể khi tham gia vào quản lý Nhà nước. Trong quá trình thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành các cơ quan hành chính Nhà nước và công dân cùng tham gia và chu trình quản lý Nhà nước. Nhờ đó mà các cơ quan hành chính có quyền ban hành các quy định có tính chủ đạo, tính quy phạm và các quyết định có tính cá biệt cụ thể để thi hành luật. Để thực hiện các quyết định ấy các công chức, viên chức đều thực hiện các hành vi theo chức trách của mình khi được Nhà nước trao quyền và công dân có nghĩa vụ phải chấp hành.

Tài phán hành chính được thực hiện ở hai cấp độ khác nhau, khi quyền Tài phán được thực hiện bởi bản thân cơ quan hành chính thì nó được tiến hành theo thủ tục hành chính , còn ngược lại khi Tài phán được coi là chức năng của toà án thì nó được tiến hành theo thủ tục tố tụng hành chính. Tuy nhiên việc không tránh khỏi một số trường hợp các quy định hành chính và các hành vi hành chính vượt quá thẩm quyền, không còn phù hợp với Pháp luật hoặc từ chối không thực hiện theo đúng chức trách của mình dẫn đến xâm phạm đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân làm phát sinh các tranh chấp hành chính và khiếu kiện hành chính. Tài phán hành chính có nhiệm vụ và trách nhiệm để giải quyết các tranh chấp và khiếu kiện hành chính.

Khi đó cơ quan Tài phán hành chính giải quyết các tranh chấp đó bằng cách kiểm tra các quyết định hành chính và các hành vi hành vi hành chính đã được ban hành hoặc thực hiện từ đó trên cơ sở phán xét đúng hay sai hợp pháp hay không hợp pháp của quyết định.

Như vậy, hoạt động của Tài phán hành chính là toàn bộ các hoạt động phán quyết mang tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan Nhà nước.

1. 1. 2Vị trí vai trò Tài phán trong bộ máy Nhà nước.

Trong cải cách nền hành chính Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta khẳng định phải thiết lập các cơ quan Tài phán hành chính. Điều này đã được thực hiện trên thực tế.

Tài phán hành chính là 1 hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước và toà án hành chính, Tài phán hành chính là 1 bộ phận của 1 bộ máy Nhà nước là cơ quan thực hiện quyền lực của Nhà nước. Tài phán hành chính có 1 vị trí đặc biệt trong nền hành chính quốc gia. Một mặt Tài phán hành chính đảm bảo, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân một mặt khác Tài phán hành chính là 1 thiết chế góp phần tích cực vào việc củng cố pháp chế, trật tự Pháp luật và là công cụ hữu hiệu nhằm bảo đảm kỹ luật, kỷ cương trong quản lý Nhà nước.

 Địa vị pháp lý của Tài phán hành chính được xác định bợi địa vị chính trị pháp lý của hệ thống toà hành chính trong hệ thống toà án Nhân dân . Toà hành chính là 1 bộ phận của bộ máy Nhà nước, là tổ chức của quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực xét xử.

Vai trò vị trí của toà án hành chính được quyết định . . . chức năng của toà án hành chính là xét xử về hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo các tranh chấp, phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước giữa công dân, cơ quan, tổ chức chính trị xã hội và cơ quan hành chính Nhà nước và các cơ quan khác khi thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành khi xét xử toà hành chính có quyền và nghĩa vụ. Kiểm tra quyết định hành chính có hợp pháp hay không hợp pháp, các hành vi hành chính bị khiếu kiện, xét xử các vụ kiện liên quan đến quản lý hành chính Nhà nước.

Trong khi chúng ta từng bước xây dựng một Nhà nước mới pháp quyền việc thiết lập hệ thống toà án hành chính là sự đáp ứng nhu cầu cần thiết khách quan nhằm đảm bảo pháp chế kỷ luật trong hoạt động hành chính Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, công chức và viên chức.

Tài phán hành chính là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính Nhà nước là biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu việc hoạt động của cơ quan hành chính và các cán bộ hành chính và công chức, viên chức tránh được các hiện tượng lạm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm, loại trừ những hiện tượng tiêu cực, cửa quyền quan liêu trong bộ máy hành chính, góp phần xây dựng nền hành chính Nhà nước trong sạch, năng động, có hiệu quả, để đáp ứng ngày một tốt hơn. .

Tài phán hành chính là một phương thức bảo vệ quyền tự do hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại từ phía cơ quan hành chính, những người có chức vụ, công chức cán bộ. Thông qua hoạt động xét xử hành chính. Toà án góp phần giáo dục ý thức Pháp luật của các nhân viên Nhà nước, cũng như mọi công dân, nâng cao tính tích cực chính trị của họ trong đấu tranh với vi phạm Pháp luật, tạo niềm tin của Nhân dân đối với Pháp luật nói chung và hệ thống hành chính nói riêng. Toà án hành chính là cơ quan hữu hiệu giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân .

Như vậy, Tài phán hành chính như là một thanh kiếm lá chắn đấu tranh với mọi vi phạm Pháp luật phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của bộ máy hành chính, bảo vệ quyền tự do lợi ích hợp pháp của Nhân dân .

Tài phán hành chính sẽ làm bộ máy hành chính Nhà nước nâng cao trách nhiệm, tăng cường kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý hành chính Nhà nước, nâng cao trách nhiệm làm việc của công chức viên chức trong khi thực thi, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do, dân chủ, lợi ích hợp pháp của Nhân dân , góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân do dân và vì dân.

1. 2 Quan điểm và sự hình thành Tài phán hành chính ở một số nước trên Thế giới hiện nay.

1. 2. 1. 1 Tài phán hành chính Anh-Mỹ.

Các cơ quan hành chính Nhà nước này nhìn chung không có quyền quyền uy trong quan hệ với công dân. chỉ có nguyên tắc bình đẳng thoả thuận về công dân được đề cao, còn sự phân công giữa luật công và luật tư không rõ ràng. Nhiều người cho rằng hệ thống Pháp luật có đủ điều kiện để đáp ứng cho các mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. từ đó dẫn đến việc thiết lập các cơ quan Tài phán hành chính chuyên trách. Các tranh chấp hành chính thông thường được giải quyết trong nội bộ các cơ quan hành chính và theo thứ bậc hành chính. Nếu không thoả mãn với sự trả lời của cơ quan hành chính thì công dân mới gửi đơn kiện nên toà án ( thông thường toà án cao cấp mới có thẩm quyền thụ lý và xét xử các vụ kiện hành chính. Do nhu cầu giải quyết các tranh chấp hành chính và do tính phức tạp của các vụ kiện hành chính, cho nên một số nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ bắt đầu nghĩ đến và thiết lập một cơ quan Tài phán hành chính, toà án chuyên trách.

1. 2. 1. 2Tài phán hành chính ở Pháp.

Cộng hoà Pháp là nước có lịch sử khá lâu dài trong việc tổ chức các cơ quan Tài phán hành chính có Khoảng gần 200 năm nay. Dưới chế độ các Đại pháp viện, một loại các cơ quan cao cấp có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án, kể cả xem xét tính hợp pháp, các hành vi của cơ quan quản lý. Các thẩm phán can thiệp sâu vào hoạt động của các cơ quan quản lý vì hệ thống của cơ quan quản lý bị tê liệt. Vì vậy, những người đi theo đường lối cách mạng đã phản đối cơ chế này vì nó vi phạm nguyên tắc phân chia quyền lực quyền tư pháp của TA đã vượt ra khỏi phạm vi của mình và lấn sang quyền hành pháp ( Đại Pháp viện không còn được trao quyền xét xử các hành vi hành chính nữa mà việc này thuộc cơ quan hành chính. Việc trao quyền xét xử các tranh chấp hành chính cho bản thân cơ quan hành chính dẫn đến một hậu quả và thể hiện ở những điểm bất lợi.

+ Các cơ quan hành chính vừa là bên bị kiện, vừa là người xử kiện, vừa là thầm phán, vừa là đương sự ( có sự giàng buộc giữa hành pháp và tư pháp ).

+ Sự phán quyết của cơ quan hành chính càng không phải lúc nào cũng đúng về phương diện pháp lý ( không phải là luật gia ).

Từ đó, ở đây rõ ràng là không thể đảm bảo được tính công và tư trong quá trình xét xử. Xuất phát từ quan điểm độc đáo về phân chia quyền lực mà trong đó quyền tư pháp không được lấn sang quyền hành pháp. cũng chính từ quan điểm như vậy, từ chỗ việc giải quyết các khiếu kiện hành chính do các cơ quan hành chính đảm nhiệm ở Pháp đã xuất hiện một hệ thống các cơ quan Tài phán hành chính độc lập với hành chính điều hành và Tài phán tư pháp trên cơ sở các tranh chấp nảy sinh khi áp dụng luật công sẽ do toà hành chính Nhà nước giải quyết và những tranh chấp luật tư sẽ do toà án tư pháp giải quyết.

Như vậy nền hành chính pháp dựa trên nguyên tắc, phân chia hành chính quản lý và hành chính Tài phán với lý lẽ. Nền hành chính quốc gia thống nhất trên 2 phương diện hoạt động hành chính quản lý và hành chính Tài phán .

1. 2. 2 Tổ chưc cơ quan Tài phán hành chính ở một số nước trên Thế giới.

Xuất phát tự yêu cầu khách quan của hoạt động quản lý Nhà nước và việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực hành chính, hầu hết các nước trên Thế giới đều nghiên cứu và xây dựng hệ thống Tài phán hành chính. Từ truyền thống pháp lý, trình độ dân trí, tình hình kinh tế xã hội nên mỗi nước có một giải pháp khác nhau, nhưng cũng có sự khảo sát kinh nghiệm và kế thừa của nhau về tổ chức cơ quan Tài phán hành chính. .

Qua nghiên cứu cho thấy hiện nay trên Thế giới có một số loại hình tổ chức Tài phán hành chính như sau:

a. Tổ chức theo chế độ lưỡng hệ Tài phán ( Tài phán tư pháp và Tài phán hành chính) độc lập nhau: Tài phán tư pháp xét xử những việc về hình sự, dân sự. . . trên cơ sở áp dụng Pháp luật. Tài phán hành chính xét xử các khiếu kiện hành chính trên cơ sở áp dụng luật công. Cách tổ chức này được chia làm 2 loại:

+ Cơ quan Tài phán hành chính cấp cao ( Hội đồng Nhà nước ) có hai chức năng : tư vấn về pháp lý và xét xử hành chính. Cơ quan Tài phán hành chính cấp dưới chỉ xét xử hành chính ( Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ , Hi lạp, Ai cập, Thái lan . . )

+ Cơ quan Tài phán hành chính chỉ xét xử hành chính ( CHLB Đức, Thuỵ điển, Phần Lan, áo, Bồ Đào Nha, Costarica. . . )

b. Tổ chức theo chế độ nhất hệ Tài phán ( Angloxacxon ). Cách tổ chức này cũng được chia làm 2 loại :

+ Toà án tư pháp có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính ( Anh, aixolen, Nauy, Sip, Nigieria, ixaren ).

+ Toà án hành chính là phân toà trong toà tư pháp ( Trung Quốc, Inđonexia, Benanh, Conggo).

1. 2. 3 Quan điểm về Tài phán hành chính ở các nước XHCN.

Nhìn chung trước đây các nước theo hệ thống Pháp luật XHCN không có toà án hành chính quyền lợi của Nhà nước và ngưòi dân là hoàn toàn nhất trí, không có sự mâu thuẫn đối lập. Vì vậy không có sự nảy sinh tranh chấp giữa cơ quan Nhà nước và công dân. nếu trong quá trình quản lý điều hành, các cơ quan Nhà nước có sự sai lầm, làm trái quy tắc và bị người dân phản đối, khiếu nại thì cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp giám sát hướng dẫn và sữa chữa.

Trên thực tế hệ thống cơ quan hành chính đó chính là hệ thống thứ bậc thiếu một cơ chế đảm bảo cho công dân có thể tranh luận với cơ quan hành chính khi có một tranh chấp nào đấy, thiếu một cơ chế hữu hiệu để kiểm tra tính hợp pháp trong quản lý hành chính Nhà nước. ở một số nước có hệ thống cơ quan gọi là viện kiểm sát được giao nhiệm vụ kiểm sát các văn bản và các hành vi hành chính của cơ quan hành chính. Những hoạt động này chỉ giới hạn ở việc kiểm tra , phát hiện và kiến nghị với cơ quan hành chính chứ không có quyền xét xử phán quyết. Như vậy, ở đây viện kiểm sát không có chức năng Tài phán hành chính. Cho đến vài thập niên trở lại đây sự cần thiết phải kiểm tra hoạt động của các cơ quan hành chính dưới hình thức Tài phán được đặt ra và thẩm quyền được giao cho toà án giải quyết.

1. 2. 4 Nhà nước thống nhất quyền lực và phân công phối hợp giữa quền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Trong công cuộc cải cách hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp cách mạng Đảng và Nhà nước ta cần phải xây dựng một bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh và Nhà nước của dân do dân và vì dân tạo nên 1 Nhà nước pháp quyền xhcn và xuất phát từ nguyên tắc và quan điểm: Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân “ vì vậy, không có sự phân lập giữa các quyền lập pháp quyền hành pháp và quyền tư pháp ( Điều 2 Hiến pháp 92).

Sự phối hợp giữa 3 quyền này có đối trọng và chế ước lẫn nhau được thể hiện ở việc kiểm tra và giám sát lẫn nhau. Từ đó đối với việc xây dựng bộ máy Nhà nước ta được thể hiện qua sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp để hoàn thiện phù hợp với việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền hiện nay.

          Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước thực hiện quyền lực của Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là Nhân dân thông qua bầu cử lập ra cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 HP 92 Quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực của Nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng Nhân dân các cấp, là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân , do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân . . . ”

Thông qua ý chí nguyện vọng của Nhân dân hoạt động lập pháp của Quốc hội là ban hành văn bản quy phạm Pháp luật có hiệu lực cao nhất đó là Hiến pháp, các bộ luật, đạo luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất. Các quy phạm Pháp luật của cơ quan Nhà nước phải được ban hành cụ thể hoá dựa trên hiến pháp và luật. Theo đó hoạt động lập hiến và lập pháp là hoạt động cơ bản nhất của Quốc hội nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội được diễn ra giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, con người với Nhà nước. Quốc hội là cơ quan cao nhất của quyền lực , ấn định thống nhất các quyền nhưng không thực thì tất cả các quyền Quốc hội làm chức năng lập pháp nhưng không thực hiện chức năng hành pháp – tư pháp. chính vì vậy hoạt động lập pháp chi phối mạnh và trực tiếp tới hoạt động hành pháp tư pháp nên nó được coi là đỉnh cao của quyền lực Nhà nước. Quốc hội còn được thể hiện rõ nét của mối tương quan giữa quyền lực Nhà nước.

– Theo Hiếp Pháp , bộ máy quản lý Nhà nước là 1 trong 4 hệ thống cơ quan, các cơ quan quản lý Nhà nước là những bộ máy hợp thành của bộ máy quản lý được thành lập để chuyên thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. ( Hoạt động và chấp hành ).

– Cơ quan quản lý Nhà nước có những đặc điểm chung của cơ quan Nhà nước. Đó là tập hợp những con người có tính độc lập tương đối về tổ chức, cơ cấu, mỗi cơ quan đều có thẩm quyền do Pháp luật quy định.

Để thực hiện quyền hành pháp thực chất là việc quản lý và điều hành xã hội theo Pháp luật, đưa Pháp luật vào đời sống xã hội trên cơ sở phù hợp với đường lối chính sách của Đảng, được thể hiện ý chí và nguyện vọng của Nhân dân .

Cơ quan hành chính Nhà nước do cơ quan quyền lực Nhà nước lập ra mà đứng đầu là chính phủ, cơ quan chấp hành quốc hội. Đây là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm tính thống nhất của quyền lực.

Chính phủ là cơ quan cao nhất của nước CHXHCNVN ( HP 92), thực hiện quyền hành pháp để điều hành đất nước, các cơ quan hành chính Nhà nước luôn luôn phải thường xuyên tiếp xúc với quần chúng Nhân dân , liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích cụ thể của Nhân dân . Vì vậy, trên cơ sở phân công rõ ràng, chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình, quốc hội chất vấn và đề ra nghị quyết về công việc chính phủ còn với Uỷ bản thường vụ quốc hội và chủ tịch nước thì chỉ phải báo cáo tình hình mà thôi.

Ở địa phương các UBND là cơ quan chấp hành của hội đồng Nhân dân , do Nhân dân bầu ra và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng Nhân dân .

Khi thực hiện quyền hành pháp để điều hành và quản lý các cơ quan hành chính có quyền ban hành các quyết định cá biệt, có quan hệ đến từng công dân . Nói chung thẩm quyền ra các quyết định hành chính cá biệt phải liên quan đến lĩnh vực đời sống của công dân và để đảm bảo hoạt động quản lý Nhà nước được diễn ra có hiệu quả ngoài việc thực hiện ban hành các văn bản pháp quy, các cơ quan hành chính có quyền tiến hành kiểm tra thanh tra và áp dụng các biện pháp xử lý cần thiết. Khi thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước có quyền ban hành các văn bản, quy định chi tiết hướng dẫn thực hiện Pháp luật sao cho phù hợp với từng lĩnh vực, từng lãnh thô trên cơ sở không trái với Hiến pháp và Luật.

Quyền tư pháp được thực hiện bằng hoạt động xét xử, công tố. . . các chức năng trên được thực hiện bởi toà án, viện kiểm sát và một số cơ quan Nhà nước khác. sự hiện diện của quyền tư pháp thông qua chức năng xét xử của Toà án, chính nguyên tắc xét xử của Toà án giữa thẩm phán và Hội đồng thẩm phán là một trong những biểu hiện rõ nét trong sự phân công rõ rệt giữa các quyền lực.

Khi xét xử, thẩm phán và hội đồng Nhân dân chỉ tuân theo Pháp luật ( Luật tổ chức TAND ). Thẩm phán và Hội đồng Nhân dân có quyền áp dụng Pháp luật vào từng trường hợp cá biệt, như định tội danh, khung hình, tăng nặng giảm nhẹ, phán xét các tranh chấp, với năng lực của mình thẩm phán và Hội thẩm Nhân dân chịu trách nhiệm trước Pháp luật. Tính độc lập trong tổ chức và hoạt động xét xử của Toà án chính là không chịu sự can thiệp từ bên ngoài vào. Các toà án xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, Giám đốc thẩm được tổ chức không phụ thuộc lẫn nhau giữa các toà án có mối quan hệ tố tụng.

Do đó toá án hành chính được tổ chức độc lập với quản lý hành chính thúc đẩy hoạt động quản lý phát triển theo đúng Pháp luật,

Sự phân công quyền lực Nhà nước được thể hiện ở chỗ:

– quyền lập hiến, lập pháp, tập trung vào quốc hội.

– quyền hành pháp tập trung vào chính phủ.

– quyền tư pháp tập trung vào Toà án.

Sự phối hợp giữa 3 quyền được thể hiện ở các mặt.

– sự phối hợp giữa Quốc hội và chính phủ. Chính phủ báo cáo cáo dự án luật trước Quốc hội để quốc hội thông qua, phê chuẩn, bầu ra quan chức cao cấp đứng đầu chính phủ, chính phủ quyết định những vấn đề: chương trình hàng năm của chính phủ, Dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước.

Quốc hội giám sát hoạt động của chính phủ bằng cách chất vấn và tỏ thái độ tín nhiệm hay không tín nhiệm.

– Sự phối hợp giữa lập pháp và tư pháp, quốc hội bầu ra những nhân sự cao cấp của Toà án, quốc hội . . . định tổ chức và hoạt động tư pháp. toá án có trách nhiệm báo cáo trước quốc hội.

– Sự phối hợp giữa các cơ quan hỗ trợ tư pháp của chính phủ và toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Như vậy quyền lực Nhà nước đã được rõ ràng ( đó không phải là phân quyền trong bộ máy tư sản ) mà đó là sự phân công lao động hợp lý giữa các cơ quan Nhà nước, bảo đảm mỗi cơ quan thực hiện đúng chức năng của mình, sự đảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước phản ánh đúng được lợi ích của Nhân dân .

1. 2. 5 Thiết lập Tài phán hành chính, một thiết chế quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

 Thiết lập Tài phán hành chính, một thiết chế quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nếu như chức năng của Tài phán hành chính là xem xét và giải quyết các khiếu kiện của công dân đối với giải quyết hành chính hay hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước và nhân viên công chức, viên chức Nhà nước khi ban hành hoặc thực hiện trong quá trình điều hành công việc. Việc thiết lập một nền Tài phán hành chính. Đây là cơ sở và tiền đề, một bước phát triển mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ( một Nhà nước mà trong đó mọi chủ thể- kể cả Nhà nước đều tuân thủ nghiêm chỉnh chấp hành Pháp luật ).

Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà ở đó các chủ thể đều phải tuân thủ và bình đẳng trước Pháp luật, điều đó khẳng định tính tối thượng của các đạo luật. Thông qua cơ quan kiểm soát cơ quan Tài phán hành chính sẽ đảm bảo sự tuân thủ Pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà nước nói chung và nhân viên nói riêng, bảo đảm tính dưới luật của hoạt động chấp hành và điều hành trên cơ sở luật quy định , để thực thi luật và không trái với quy định của Pháp luật. Nêu rõ quyền bình đẳng trước Pháp luật.

Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó không chỉ có công dân có trách nhiệm với Nhà nước mà Nhà nước phải có trách nhiệm với công dân mình thì thực hiện Tài phán hành chính sẽ làm cho các cơ quan hành chính nâng cao trách nhiệm , tăng cường kỷ luật kỷ cương tuân thủ pháp chế trong việc quản lý Nhà nước nâng cao trách nhiệm của viên chức Nhà nước trong việc thực thi công vụ, tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của Nhân dân .

Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó các quyền tự do dân chủ cơ bản của công dân được Pháp luật bảo đảm và bảo vệ thì Tài phán hành chính là phương thức để thực hiện và bảo vệ thuộc các hành vi cửa quyền của cơ quan Nhà nước. Tài phán hành chính sẽ đóng góp một vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động hành chính, tránh được các hiện tượng lạm dụng quyền tiêu cực trong bộ máy chính quyền. Vì vậy cơ quan Tài phán hành chính là cơ quan nhằm bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân.

Xây dựng một Nhà nước pháp quyền có liên quan đến việc đổi mới tổ chức và hoạt động lập pháp hành pháp và tư pháp. ba cơ quan này có sự phân công và phối hợp chặt chẽ 3 quyền trên nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực. Nhưng điều đầu tiên và quan trọng vẫn là các nhà hành chính để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của mình. Vì một trong những nguyên tắc cao nhất của Nhà nước pháp quyền là đặt mình dưới Pháp luật và phải tuân thủ nghiêm túc Pháp luật và phải chịu sự kiểm soát của Nhân dân .

Từ đó việc thiết lập cơ quan Tài phán hành chính chuyên trách độc lập thực hiện chức năng Tài phán hành chính. Đây là một thiết chế quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, một điểm tựa của xây dựng Nhà nước pháp quyền, không thực hiện tốt Tài phán hành chính thì không xây dựng được một Nhà nước pháp quyền.

1. 3Tài phán hành chính ở Việt nam.

1. 3. 1Khiếu nại tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt nam.

Khiếu nại là một hiện tượng phát sinh trong đời sống XH , như là phản ánh có tính tự nhiên của con người trước một quyết định một hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó không phù hợp, có thể là không hợp lý, không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm tới quyền , tự do, lợi ích của mình đặt trong mối quan hệ công dân với Nhà nước có quan niệm cho rằng: “ khiếu nại là một hình thức công dân hướng đến cơ quan Nhà nước , hay tổ chức xã hội tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang khi thấy quyết định hay hành vi xâm phạm tới quyền và lợi ích của mình “ 1.

Từ triết lý “ dùng quyền để bảo vệ quyền “ thì “khiếu nại được sử dụng khi quyền chủ thể của bản thân công dân khiếu nại hoặc củangười do mình bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi trái Pháp luật thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của các cơ quan Nhà nước hoặc nhân viên Nhà nước “2

Qua sự phân tích ở trên cho thấy, khiếu nại là một phản ứng tất yếu khi quyền, tự do lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức bị xâm hại. Vì vậy việc ghi nhận khiếu nại trở thành một quyền của các nhân, cơ quan tổ chức là một điều cần thiết.

Điều 74 Hiến Pháp 92 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái Pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang Nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. . . ”

Cụ thể hoá Điều 74 Hiến Pháp 92, Luật khiếu nại tố cáo quy định: “ Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành vi đó là trái Pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. cán bộ công chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật của người có thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái Pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. ”

Khoản 2 Điều 2 Luật “2- “Tố cáo” là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm Pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. ”

Như vậy tố cáo thực chất là việc công dân phát hiện thông báo chính thức với cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những hành vi vi phạm Pháp luật nào đó diễn ra trong đời sống xã hội có thể hoặc không liên quan đến trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc những người cụ thể khác. Tố cáo thể hiện sự phản ánh của công dân trước hành vi vi phạm Pháp luật của chủ thể khác trong xã hội.

Trong hệ thống bộ máy Nhà nước, các cơ quan hành chính Nhà nước có một hệ thống sâu rộng và đồ sộ. Hoạt động của hệ thống này là thường xuyên trực tiếp tác động đến các quan hệ trên mọi đời sống xã hội, động chạm đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mọi người dân do đó khó có thể tránh khỏi những “ va chạm “, những thiếu xót gây tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức gây nên những tranh chấp, những mâu thuẫn . Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực hiện dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã quy định khiếu nại, tố cáo là một trong các quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong hiến pháp: “ Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái Pháp luật của cơ quan Nhà nước. . việc khiếu nại, tố cáo được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời gian Pháp luật quy định. . . ” Điều 74 Hiến pháp 92 )

Trong các văn bản Pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước thường sử dụng thuật ngữ: nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng. Thuật ngữ thẩm quyền thường được sử dụng trong các văn bản Pháp luật có quy định về xử phát vi phạm hành chính, về xét xử hành chính, xét xử hình sự. . .

Thẩm quyền theo một nghĩa nhất định được hiểu là quyền xem xét để kết luận và quyết định một vấn đề nào đó theo Pháp luật. Theo cách hiểu như vậy thẩm quyền được hiểu như là quyền và giới hạn của quyền bởi Pháp luật, thẩm quyền của cơ quan tổ chức các nhân gắn với quyền lực.

Từ phương tiện pháp lý, thẩm quyền của cơ quan Nhà nước, người có chức vụ có thể hiểu đó là quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực pháp lý của cơ quan Nhà nước, ngưới có chức vụ được Pháp luật quy định, một mặt nhân danh công quyền phán xét, quyết định về một vấn đề nào đó do Pháp luật quy định, mặt khác có nghĩa vụ phải phán quyết. ở đây có hai yếu tố tạo thành thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, người có chức vụ là quyền và nghĩa vụ, trong đó yếu tố quyền có tính quyết định, còn yếu tố nghĩa vụ được xem xét như là bổn phận, trách nhiệm phải thực hiện. Như vậy, thẩm quyền của cơ quan Nhà nước chính là quyền xem xét phán quyết những vụ việc, vấn đề có tính pháp lý nào đó theo quy định của Pháp luật, đồng thời đó cũng là nghĩa vụ của cơ quan đó phải phán xét, giải quyết vụ việc.

Từ những vấn đề có tính lý luận nêu trên, thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan Nhà nước có thể được hiểu là quyền xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghĩa vụ phải xem xét giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan Nhà nước nào đó do Pháp luật quy định. Hai yếu tố này đan xen, thẩm thấu vào nhau không nên đặt chúng một cách biệt lập, đó là hai mặt của một vấn đề mâu thuẫn nhưng thống nhất, cùng xác định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong giải quyết khiếu nại tố cáo.

a). Thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước trong giải quyết khiếu nại

    – Chủ tịch uỷ ban Nhân dân xã, phường thị trấn ( gọi chung là cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc uy bản Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuốc tỉnh ( gọi chung là cấp huyện ) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp ( Điều 19 Luật khiếu nại tố cáo ).

– Chủ tịch uỷ ban cấp huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và giải quyết khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại ( Điều 20 Luật khiếu nại tố cáo).

– Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyết giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp.

-Giám đốc sở và cấp tương đương trực thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình trực tiếp quản lý và giải quyết khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc sở hoặc cấp tương đương giải quyết nhưng còn có khiếu nại ( Điều 22 Luật khiếu nại, tố cáo ).

– Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp. ( Điều 24 Luật Khiếu nại, tố cáo ).

– Thẩm quyền của thủ tướng chính phủ trong giải quyết khiếu nại.

    Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Với tư cách đó thủ tướng chính phủ có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo quản lý hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước nhằm đảm bảo cho các quy định của Pháp luật được thi hành thống nhất từ TW đến địa phương. Theo Hiến pháp 1992 và luật tổ chức chính phủ còn quy định trách nhiệm của thủ tướng chính phủ trong việc tổ chức và chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại , tố cáo. trên cơ sở quy định này, luật khiếu nại tố cáo năm 1998 đã quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ tướng chính phủ tại điều 28 như sau:

Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với:

          Khiếu nại mà Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;

Khiếu nại đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực quản lý Nhà nước.

Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm Pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

b) thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức thanh tra Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

– Tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp giải quyết những khiếu nại của thủ trưởng cùng cấp.

– Giải quyết các khiếu nại mà cấp dưới trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp đã giải quyết nhưng còn khiếu nại.

– Kháng nghị các quyết định, khiếu nại của tổ chức thanh tra cấp dưới trực tiếp khi phát hiện vi phạm pháp luật.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 1999 Các tổ chức thanh tra Nhà nước đã giúp lãnh đạo cùng tiếp nhận, phân loại và xử lý 180. 92 vụ việc gồm 152. 825 khiếu nại, 25. 909 tố cáo, 1785 kiến nghị phản ánh. Riêng cơ quan thanh tra Nhà nước tiếp nhận xử lý 31. 292 đơn thư vượt cấp lên trung ương trong đó có 12. 774 vụ việc đủ điều kiện xem xét gồm 10. 041 khiếu nại và 945 tố cáo, 1. 042 kiến nghị và 716 phản ánh.

Theo báo cáo của nghành thanh tra. Năm 2000 cơ quan hành chính đã thụ lý 204. 436 vụ thuộc thẩm quyền trong đó có 168. 741 khiếu nại và 35. 695 tố cáo. Tổng số vụ khiếu lại tố cáo tăng 13% so với năm 1999, các cơ quan hành chính Nhà nước cũng đã xử lý kỷ luật hàng trăm cán bộ công chức có sai phạm và một số vụ việc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự (Thanh tra Nhà nước, báo cáo tổng kế năm 2000). Tình hình khiếu nại chủ yếu tập trung vào các vấn đề đất đai, nhà cửa, giải phóng mặt bằng, các chính sách xã hội, việc làm. . .

Gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo tiếp tục gia tăng, có biểu hiện không bình thường, có nhiều đoàn đông người ở địa phương lên trung ương, đến nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nơi hội họp khiếu nại với thái độ gay gắt. một số người ở nhiều cơ sở khác nhau, tổ chức liên kết với nhau để kéo đi khiếu kiện.

Trước tình hình khiếu kiện diễn biến như trên, thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991; Nghị quyết Trung Ương 8 Khoá VII; Nghị Trung Ương 3 khoá VIII; chỉ thị 21/CT-TW ngày 10/10/1997 của Bộ Chính trị, chính phủ đã ra nhiều chủ trương và tập trung chỉ đạo các cấp các nghành xem xét giải quyết vừa khẩn trương vừa thận trọng, nhất là những vụ khiếu kiện đông người, phức tạp; đã ban hành Nghị định 38/HĐBT ngày 28/2/1992 hướng dân thi hành Pháp lệnh khiếu nại tố cáo; Nghị định 89/CP ngày 7/8/1997 về Quy chế tổ chức tiếp công dân; Chỉ thị 18/TTg ngày 15/1/1993; Chỉ thị 64/TTg ngày 25/1/1995 của Thủ tướng chính phủ về tập trung xử lý giải quyết khiếu kiện đông người và chấn chỉnh việc huy động đóng góp của Nhân dân ; Đặc biệt Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định số 84/QĐ-TTg ngày 01/09/2000 và 1064/QĐ- TTg ngày 25/10/2000 về thành lập các đoàn công tác, liên nghành trung ương để tập trung giải quyết, xử lý các vụ khiếu nại tố cáo phức tạp tồn đọng kéo dài ở các địa phương.

Đồng thời, Chính phủ cũng tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo, xin ý kiến Bộ Chính trị, trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành như: Pháp lệnh chống tham nhũng, pháp lệnh thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, pháp lệnh về cán bộ, công chức, Luật khiếu nại, tố cáo, Nghị quyết 58 của UBTVQH về giao dịch dân sự về nhà ở trước 1/7/1991. Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn thực hiện các văn bản Pháp luật trên.

những văn bản Pháp luật này đã và đang phát huy hiệu quả để chấn chỉnh và tăng cường quản lý xã hội, làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Với sự tập trung chỉ đạo của chính phủ, sự kiểm tra, giám sát cảu Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội, các cấp, các nghành, có sự phối hợp của các đoàn thể từ Trung Ương đến địa phương, đã nhận thức được đẩy đủ hơn về trách nhiệm quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. nhiều nơi coi nhiệm vụ giải quyết khiếu kiện của Nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm không những của chính quyền các cấp mà còn là nhiệm vụ quan trọng của cấp uỷ, những điểm nóng hoặc điểm có nhiều diễn biến phức tạp đã huy động lực lượng mà tổ chức thanh tra làm nòng cốt trong việc tiến hành thanh tra để kết luận rõ đúng sai nhiều vụ khiếu kiện phức tạp đông người . Đến nay, nhiều vụ việc đã thanh tra, kiểm tra có kết luận và xử lý, công bố công khai, được Đảng bộ cơ sở và đại bộ phận Nhân dân đồng tình, nhiều điểm nóng cũ được giải quyết và có tác dụng ngăn ngừa, hạn chế được “điểm nóng” mới phát sinh.

Từ nhu cầu thực tiễn khiếu nại tố cáongày 21/5/1996 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và chủ tịch nước đã công bố theo pháp lệnh 49 L/CTN ngày 3/6/1996. Đây là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm giải quyết các vụ án hành chính kịp thời, đúng Pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước.

từ ngày 1/7/1996 toà hành chính trong hệ thống toà án Nhân dân đã bắt đầu hoạt động. Để đảm bảo sự công bằng giữa cơ quan Nhà nước và công dân khi xảy ra các chanh chấp đáp ứng nhu cầu giải quyết khiếu nại của công dân kịp thời, đúng Pháp luật.

Tuy nhiên vấn đề khiếu nại, tố cáo của công dân ở các địa phương tổ chức vẫn đang có chiều hướng gia tăng đáng lưu ý là tình trạng khiếu kiện đổi hướng phức tạp kéo dài trong nhiều năm. việc thiết lập thể chế Tài phán hành chính góp phần cực kỳ quan trọng trong việc loại bỏ dần các hoạt động cộng vụ vi phạm Pháp luật gây thiệt hại cho XH, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. . . tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự của dân do dân vì dân.

Các cơ quan hành chính thực thi nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo vừa kém hiệu quả, thiếu khách quan. Chính vì vậy vừa xác lập thẩm quyền xét xử hành chính của TAND là một thiết chế đối ứng với cơ quan hành chính Nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, đảm bảo cho việc giải quyết một cách khách quan, đúng Pháp luật.

 

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Tài phán hành chính là việc trong toà án, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, nhân danh quyền lực của Nhà nước, tiến hành xem xét, đánh giá phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp và tính đúng đắn của quyền quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục do Pháp luật quy định nhằm bảo vệ, quyền lợi ích hợp pháp của công dân.

a. Pháp luật về khiếu nại tố cáo là tổng thể các quy phạm Pháp luật quy định về quyền khiếu nại tố cáo, nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo. Phần lớn Pháp luật về khiếu nại, tố cáo có tính chất hành chính trừ những khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực tư pháp. vì vậy có thể chia Pháp luật về khiếu nại tố cáo thành 2 bộ phận chính là Pháp luật về khiếu nại tố cáo hành chính và Pháp luật về khiếu nại tố cáo tư pháp.

b. Tài phán hành chính là một nội dung quan trọng trong tổ chức và hoạt động xét xử của TAND, liên quan đến quản lý hành chính Nhà nước.

c. Tài phán hành chính là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính và với chức năng kiểm tra bảo vệ quyền lợi của công dân và công chức, viên chức Nhà nước trước những hoạt động của các cơ quan và các nhà chức trách hành chính. Đó là phương thức tránh các hiện tượng làm quyền , lộng quyền, loại trừ những tiêu cực cửa quyền trong bộ máy Nhà nước.

Mục đích xây dựng một Nhà nước pháp quyền, trong sạch, năng động có hiệu quả cao cho Nhân dân .

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG II.

CƠ CẤU TỔ CHỨC, ĐỐI TƯỢNG, THẨM QUYỀN VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM.

2. 1 Cơ cấu tổ chức, đối tượng, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính.

2. 1. 1 Cơ cấu tổ chức Tài phán hành chính ở Việt nam.

Ở nước ta hiện nay cơ quan xét xử hành chính không tổ chức thành toà hành chính độc lập mà là các toà chuyên trách trong hệ thống TAND. Tại Điều 1 Luật Tổ chức TAND – 2002 có quy định: “ TANDTC, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN.

Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự , hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của Pháp luật. ”

Như vậy, xét xử hành chính do TAND các cấp sau thực hiện:

Toà án Nhân dân tối cao.

Toà án Nhân dân cấp tỉnh.

Toà án Nhân dân cấp huyện.

2. 1. 1. 1. Cơ cấu tổ chức xét xử hành chính TANDTC.

Toà án Nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước CHXHCNVN theo Khoản 2 Điều 18 Luật Tổ chức TAND, có cơ cấu tổ chức xét xử hành chính TANDTC như sau:

Hội đồng thẩm phán TANDTC.

Toà phúc thẩm TANDTC.

Toà hành chính TANDTC.

TANDTC có chức năng xét xử những vụ án hành chính theo quy định của Pháp luật thẩm quyền được quy định như sau:

– Hội đồng thẩm phán TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm. Có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của TA phúc thẩm, toà hành chính TANDTC khi bị kháng nghị ( Điểm a Khoản 1 Điều 22 Luật Tổ chức Toà án Nhân dân ).

2. 1. Đối tượng của Tài phán hành chính.

2. 1. 1. Quyết định hành chính.

Dưới góc độ của luật tố tụng hành chính và nghành khoa học luật tố tụng hành chính, quyết định hành chính có khái niệm khác với khái niệm quyết định hành chính theo luật hành chính. Ngay cả những nước có luật hành chính phát triển như: Pháp, CHLB Đức. . coi luật tố tụng hành chính chỉ là bộ phận của luật hành chính thì khái niệm quyết định hành chính theo tố tụng hành chính vẫn có sự phân biệt với khái niệm quyết định hành chính theo luật hành chính. .

Nhìn chung trên TG, khái niệm quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính giữa các nước không đồng nhất với nhau tuỳ thuộc vào tính chất nền Tài phán và đặc biệt là đối tượng xét xử của quyền Tài phán mà các nước có quna niệm quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính tương ứng với phạm vi và đặc tính của đối tượng đó. Như ở Pháp quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hành chính không chỉ là các quyết định hành chính quy phạm.

Có nước chỉ coi quyết định hành chính trong tố tụng hành chính bằng hành động. Nhưng cũng có nước xem xét quyết định hành chính tuỳ thuộc đối tượng xét xử hành chính chỉ là những quyết định hành chính cá biệt bằng văn bản, thậm chí chỉ một số quyết định hành chính trong một số lĩnh vực nhất định chứ không phải trong mọi lĩnh vực của hoạt động tư pháp.

Theo luật tố tụng hành chính Việt nam, quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hành chính được xác định trên cơ sở phương pháp liệt kê chỉ những loại quyết định hành chính nào có liên quan trực tiếp đến quyền lực, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và được quan tâm chú ý nhiều hơn hay bị khiếu kiện với khối lượng nhiều.

Với ý nghĩa như vậy, Luật tố tụng hành chính Việt nam định nghĩa quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. 1( Xem Khoản 10 Điều 2 Luật khiếu nại và tố cáo, Luật số 09/1998/QH10; Khoản 3 Điều 1 Pháp luật sửa đổi bổ sung một số Khoản của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ hành chính ).

Quyết định hành chính phải do cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước ban hành như: Chính phủ, Các bộ và cơ quan ngang bộ. . ( ở TW), uỷ ban Nhân dân các cấp, các sở, phòng, ban. . . ( ở địa phương ). Do yêu cầu đảm bảo chức năng hoạt động hoặc lý do thuộc về tổ chức nội bộ cơ quan hoặc được trao quyền thực hiện một quyền năng hành chính cụ thể nào đó mà cơ quan này cũng có thể ban hành một số quyết định hành chính như: Toà án ra quyết định xử phạt hành chính trong trường hợp vị phạm hành chính, cản trở hoạt động xét xử của Toà án. . . cho nên, cơ quan hành chính ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm các cơ quan chức năng cơ bản là quản lý hành chính mà cả các cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính trong một số lĩnh vực hoặc từng trường hợp nhất định ( quyền bổ nhiệm công chức, quyền tuyển dụng, quyền dự toán. . . )

Chính vì vậy, luật tố tụng hành chính quan niệm các quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, văn phòng Quốc hội, văn phòng chủ tịch nước, TAND, VKSND nếu bị khởi kiện vụ án hành chính, được coi là đối tượng xét xử của TAND.

– Theo Điều 11 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số Điều PLTTGQCVA HC khi những quyết định hành chính cụ thể ở các lĩnh vực sau thuộc thẩm quyền giải quyết của TA.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

+ Quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trực kiên cố khác.

+ Quyết định hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.

+ Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống;

+ Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.

+ Quyết định trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh.

+ Quyết định hành chính trong việc thu thuế, truy thu thuế.

+ Quyết định hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản.

+ Quyết định hành chính trong việc thu phí, lệ phí.

+ Các quyết định khác theo quy định của Pháp luật.

Như vậy, những quyết định hành chính mà Pháp luật không quy định thuộc lĩnh vực ( đối tượng ) xét xử hành chính thì không coi là quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính Việt nam. 1 Xem Khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh số 10/1998 / PL -UBTVQH10).

Quyết định hành chính cá biệt được hiểu là chỉ áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.

Đối tượng áp dụng của quyết định là cá nhân hoặc tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp và được ghi nhận trong nội dung của quyết định. VD: một người bị cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi giấy phép sản xuất kinh doanh có thể khởi kiện yêu cầu toà án huỷ bỏ quyết định thu hồi giấy phép của mình; trái lại không phải bất cứ người khởi kiện nào cũng đều là đối tượng áp dụng của quyết định. Chẳng hạn, cấp có thẩm quyền quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho một người nhưng nếu thực hiện quyết định này sẽ gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác( quyền sử dụng đất hợp pháp ) do đó người này có thể kiện đòi hỏi huỷ bỏ quyết định cho phép sử dụng đất trên chứ không phải là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( đối tượng áp dụng của quyết định ) khởi kiện.

Như vậy, đối với đối tượng áp dụng, quyết định hành chính sẽ dẫn tới tình trạng làm phát sinh thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ cụ thể như:

– Được hưởng quyền, lợi ích.

– Gánh vác một nghĩa vụ bổ sung.

– Tước bỏ hoặc hạn chế một hoặc môt số quyền, lợi ích.

Quyết định hành chính lần đầu: vấn đề này, hiện chưa được quy định cụ thể trong văn bản Pháp luật về tố tụng hành chính. Song có thể căn cứ vào hướng dẫn của TANDTC để xác định hành chính lần đầu.

Quyết định được ban hành lần đầu tiên bởi cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước. Sau khi đã thành quyết định hành chính lần đầu tiên mà bị khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đã ra quyết định huỷ quyết định hành chính lần đầu giao về giải quyết lại và cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính lần đầu lại ra quyết định mới thì quyết định mới này vẫn được coi là quyết định hành chính lần đầu.

Khi giải quyết việc khiếu nại đối với quyết định hành chính lần đầu, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ra một quyết định trong đó có nội dung hoàn toàn mới hoặc làm phát sinh thềm quyền và nghĩa vụ của người chấp hành quyết định thì trong trường hợp này được coi là quyết định hành chính lần đầu.

2. 1. 2. Hành vi hành chính.

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.

– Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính ( người giải quyết khiếu nại ) do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định, gồm: Chủ tịch UBND các cấp; Giám đốc Sở, Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở; Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ; Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ.

Các hành vi hành chính diễn ra trên tất cả những lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính Nhà nước được quy định tại Điều 11 pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số Điểu Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là đối tượng xét xử hành chính.

Hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trúc kiên cố khác.

Hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính.

Hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.

Hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh.

Hành vi hành chính trong việc trưng dựng, trưng mua, tịch thu tài sản.

Hành vi hành chính trong việc thu thuế, trưng thu thuế.

Hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí.

– Hình thức và thủ tục khiếu nại hành chính:

 Hình thức khiếu nại được biểu hiện bằng đơn hoặc trình bày khiếu nại ( tự trình bày hoặc thông qua người đại diện ) để người có trách nhiệm ghi chép lại. . .

2. 1. 3 Quyết định kỷ luật: là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của Pháp luật về cán bộ, công chức ( Xem Khoản 12 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo. )

2. 2. Thẩm quyền xét xử hành chính của TAND.

Trước một quyết định hành vi, hành vi hành chính trái Pháp luật xâm hại quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân có quyền khởi kiện tại toà án có thẩm quyền yêu cầu toà án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính đều thuộc thẩm quyền xét xử của TA. Do vậy, để bảo đảm sự thuận tiện, tiết kiệm về mặt thời gian và tiền của của công dân trong việc bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của họ cần xác định công dân có quyền khiếu kiện tại toà án, những loại quyết định hành chính hành vị hành chính nào. và nếu khiếu kiện thì toà án nào sẽ là toà án có thẩm quyền giải quyết.

          Mỗi một cơ quan Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều phải hoạt động trong phạm vi thẩm quyền mà Nhà nước giao phó, tuyệt đối không lạm quyền hoặc xâm phạm đến thẩm quyền cơ quan Nhà nước khác. Sự phân định thẩm quyền này là hoàn toàn cần thiết, là Điều kiện để bảo đảm cho hoạt động của Bộ máy Nhà nước được diễn ra bình thường, đạt hiệu quả cao và bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó cơ quan xét xử – Toà án Nhân dân .

          Để đảm bảo quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung quy định thẩm quyền chung của TAND các cấp đối với các vụ khiếu kiện hành chính như sau.

2. 2. 1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Căn cứ vào pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ( năm 2002 ) thì các hình thức xử phạt hành chính bao gồm các hình thức xử phạt hành chính, kinh tế – xã hội, vừa mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hay không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức quản lý hành chính Nhà nước.

          Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng không giới hạn là khiếu kiện đối với các loại phí, lệ phí. Cho nên đối tượng xét xử của toà hành chính trong lĩnh vực này là toàn bộ các quyết định hành chính, hành vi hành chính về thu phí, lệ phí.

2. 2. 2 Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức và giữ chức vụ từ vụ trường và tương đương trở xuống.

Đây là hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất đối với cán bộ công chức, với tư cách là một trong những phương thức bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân việc quy định thẩm quyền của Toà án ( toà hành chính ) trong việc giải quyết các khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết ( Quy định Khoản 4 Điều 11 ).

2. 2. 3 Khiếu kiện quyết định hành chính hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai ( Khoản 5 Điều 11 ).

Để xác định được các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc đối tượng xét xử của toà án hành chính , trước hết cần xuất phát từ nội dung quản lý Nhà nước về đất đai ( Điều 13 Luật đất đai 1993 ) bao gồm :

– Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phan dạng đất, lập bản đồ địa chính.

– Quy hoạch về kế hoạch hoá sử dụng đất.

– Ban hành các văn bản Pháp luật về quản lý, sự dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó.

– Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.

– Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sự dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

– Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất.

Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung chỉ quy định là khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính, trong lĩnh vực quản lý đất đai, do đó có thể hiểu là tất cả các quyết định cá biệt và mọi hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong khi thực hiện các nội dung nói trên về quản lý Nhà nước về đất đai thuộc đối tượng xét xử của Toà án .

2. 2. 4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh ( Quyết định Khoản 6 Điều 11 ).

Theo pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính, tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn hoặc không có thời hạn được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy tắc sử dụng giấy phép. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép. Quyết định của người có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật khi bị khởi kiện sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

2. 2. 5 Khiếu kiện giải quyết hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản ( Khoản 7 Điều 11 )

Khi thực thi quyền hành pháp của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, trong những trường hợp vì lợi ích công cộng có thể buộc các công dân, tổ chức hợp tác, thì một số trường hợp do luật định, các cơ quan cá nhân có thẩm quyền có quyền buộc công dân, tổ chức hợp tác với mình. Một trong những hình thức đó là ban hành các quyết định về trưng dụng, trưng mua tài sản, tịnh thu tài sản.

          Về căn cứ trưng dụng trưng mua tài sản, Điều 175 Khoản 3 của Bộ luật dân sự quy định. “ Trong trường hợp thật . . . của Pháp luật “ Đây là quy định về nguyên tắc bồi hoàn theo quan hệ dân sự. Nhưng trước khi thực hiện quan này là một quan hệ hành chính. Cho nên các quyết định hành chính về trưng dụng, trưng mua có thể bị công dân, tổ chức khởi kiện tại toà hành chính và nó thuộc thẩm quyền của Toà án hành chính.

          Tịch thu tài sản theo quy định của Pháp luật hành chính, mà cụ thể là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện vi phạm hành chính theo Điều 12 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ( năm 1995 ) thuộc đối tượng xét xử của toà hành chính.

2. 2. 6 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu thuế trưng thu thuế ( Quyết định Khoản 8 Điều 11 ).

          Các quyết định về thu thuế, truy thu thuế ở đây là các quyết định ấn định mức nộp thuế cụ thể của tổ chức, cá nhân trên cơ sở luật thuế pháp lệnh chỉ quy định chung là “ quyết định về thu thuế, trưng thu thuế “, không giới hạn loại thuế nào. Vì vậy, thẩm quyền xét xử của Toà án hành chính trong lĩnh vực này là tất cả các quyết định về thu thuế, trưng thu thuế đối với các loại thuế.

2. 2. 7 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí ( Khoản 9 Điều 11 ).

          Lệ phí là Khoản thu của Nhà nước vừa mang tính chất bù đắp chi phí để phục vụ người nộp lệ phí, vừa thực hiện một số thủ tục hành chính ( phạt cảnh cáo: phạt tiền ); Các hình thức xử phạt bổ xung ( tước quyền sử dụng giấy phép: chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng đề vi phạm hành chính ). Ngoài ra hình thức xử phạt trên, cá nhân và tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các biến pháp sau:

+ Buộc phục hồi tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.

+ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện.

+ Buộc tiêu huỷ những vật phẩm gây hại cho sức khoẻ của con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại. Trong xét xử hành chính thì toà án phán quyết cả việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn mặc dù Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chỉ quy định là: “ khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính “. Do đó có thể hiểu tất cả các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên mọi lĩnh vực bị khởi kiện đều thuộc thẩm quyền xử phạt của Toà án, với bất kỳ hình thức xử phạt nào ( xử phạt chính, xử phạt bổ sung ) và việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn . Điều 119 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 cũng đã quy định với tinh thần như vậy.

2. 2. 8 Khiếu kiện quyết định hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trực hiện có.

          Điều 62 Hiến pháp 1992 quy định “ Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và Pháp luật, quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo Pháp luật “. Như vậy, quyền có nhà ở và quyền được xây dựng nhà ở là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ hiện thực hoá quyền này Pháp luật nước ta đã đặt ra nhiều bảo đảm pháp lý khác nhau và một trong những đảm bảo đó là cho phép công dân có quyền khiếu kiện ra toà án những quyết định hành chính, hành vi hành chính trái Pháp luật trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình vật kiến trúc kiên cố khác.

2. 2. 9 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại xã phường trị trấn, dựa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.

          Hiến pháp 1992, quy định “ Công dân có quyền bất khả xâm phạm. . . ) Điều 71 Hiến pháp 1992.

Như vậy, việc áp dụng 1 trong các biện pháp nói trên là một trong những chừng mực nhất định đã hạn chế các quyền, tự do của công dân, vì vậy việc bảo vệ các quyền tự do của họ bằng con đường hành chính và tố tụng toà án có ý nghĩa rất quan trọng.

Theo Khoản 3 Điều 11 quy định, Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án về khiếu kiện giải quyết hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thực thi biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào chữa bệnh quản chế hành chính. Khi thực hiện thẩm quyền đối với các việc thuộc nhóm này cần phải xác định việc khiếu kiện giải quyết hành chính và việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn là thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện, còn lại đối với việc khiếu kiện hành chính về quyết định hành chính, khác đều thuộc thẩm quyền của Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

2. 2. 10. khiếu kiện các quyết định khác theo quy định của Pháp luật.

Đây là một “ quy định mở rộng “ cho việc bổ sung các việc khác thuộc thẩm quyền xét xử của toà án trong lĩnh vực hành chính khi có nhiều văn bản Pháp luật khác nhau liên quan đến nhiều lĩnh vực Điều chỉnh khác nhau.

2. 3. Thẩm quyền theo lãnh thổ ( cấp xét xử ).

2. 3. 1. 1 Thẩm quyền xét xử hành chính của toà án Nhân dân tối cao.

Với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, Toà án Nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử hành chính như sau:

+ Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án theo quy định của Pháp luật.

+ Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị;

+ Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định, đã có hiệu lực Pháp luật bị kháng nghị theo quy định của Pháp luật tố tụng.

+ Toà án Nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của toà án cấp tỉnh mà toà án Nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết đối với khiếu kiện quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và giải quyết hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó liên quan đền nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được thẩm quyền của toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban Nhân dân . chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

Thẩm quyền xét xử hành chính trên đây của Toà án Nhân dân tối cao được thực hiện thông qua thẩm quyền theo quy định của các cơ chế sau:

– Toà hành chính Toà án Nhân dân tối cao Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án và bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị ( Theo Khoản 3 Điều 70 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ).      

– Toà phúc thẩm toà án Nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án , quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị.

– Uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bán ản quyết định đã có hiệu lực Pháp luật bị kháng nghị theo quy định của Pháp luật tố tụng hành chính. Uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của các toà phúc thẩm.

– Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao ( cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm ) có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao bị kháng nghị.

2. 3. 1. 2. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án Nhân dân cấp tỉnh.

Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương ( gọi chung là Toà án cấp tỉnh ) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây:

– Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bô, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ.

Việc quy định thẩm quyền này đối với Toà án cấp tỉnh dựa vào một số lý do sau: Các cơ quan Nhà nước nói trên đều là cơ quan quản lý Nhà nước cấp Trung ương, quản lý nghành hoặc lĩnh vực nào đó trên phạm vi toàn quốc có thể có những quyết định hành chính, hành vi hành chính tác động đến cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân ở bất kỳ địa phương nào. Nếu quy định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện thuộc Toà án Nhân dân tối cao thì trong nhiều trường hợp sẽ gây khó khăn cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện nếu họ ở vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, quy định như vậy tránh việc dồn nhiều vụ án hành chính về Toà án Nhân dân tối cao theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm, phù hợp với xu hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

– Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan Nhà nước nêu trên và của cán bộ, công chức các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cu trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ.

– Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó;

– Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống.

– Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện, đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban Nhân dân , chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

Toà án Nhân dân cấp tỉnh còn có thẩm quyền như sau:

– Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị.

– Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị.

Thẩm quyền trên đây của Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thực hiện thông qua quyền hạn giải quyết vụ án hành chính, cụ thể như sau:

– uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân cấp tỉnh có quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới kháng nghị.

– Toà hành chính Toà án Nhân dân cấp tỉnh có quyền xét xử sơ thẩm những vụ án do Pháp luật quy định: xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị.

2. 3. 1. 3 Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án Nhân dân cấp huyện.

Toà án Nhân dân cấp huyện, quận thị xã thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là Toà án cấp huyện ) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây:

– Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó.

– Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuỗng trên cùng lãnh thổ đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó.

2. 2. 2 Phân định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính.

Nếu có sự tranh chấp về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính thì việc giải quyết tranh chấp đã được phân định như sau:

2. 2. 2. 1 Phân định thẩm quyền giữa toà án và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo.

Theo quy định này Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, thì họ có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.

Trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì phân định thẩm quyền như sau:

– Nếu chỉ có một người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền.

– Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Toà án đã thụ lý án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.

Đây là môt trong những quy định phản ánh tính chất đặc thù của thủ tục tố tụng hành chính so với các thủ tục khác, theo đó ghi nhận quyền của người khiếu nại trong việc lựa chọn trật tự giải quyết khiếu nại hành chính và đề ra nguyên tắc phân biệt thẩm quyền của Toà án ( được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết khiếu nại tiếp theo ( được quy định trong Luật khiếu nại, tố cáo ).

Phương án phân định thẩm quyền này cần được nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa, đảm bảo là cơ sở pháp lý vững chắc để vận dụng và thực hiện thống nhất trong thực tiễn khiếu kiện hành chính. Ví dụ: Khi Toà án đã thụ lý và đang giải quyết vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của một người thì nhận được quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc xảy ra sự tranh chấp thẩm quyền trong trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo vẫn ra quyết định giải quyết khiếu nại tiếp theo khi Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án. . .

2. 2. 2. 2 Phân định thẩm quyền giữa các Toà án với nhau.

Trong thực tiễn hoạt động của các Toà án, có thể xảy ra tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính theo các dạng sau đây:

– Cả hai Toà án đều cho rằng mình có thẩm quyền giải quyết vụ việc;

– Cả hai Toà án đều từ chối giải quyết các vụ án vì cho rằng mình không có thẩm quyền.

Các trường hợp trên đây đều dẫn đến hệ quả là làm chậm trễ quá trình giải quyết vụ án, có thể gây thiệt thòi về quyền lợi cho đương sự. Để tránh việc này, Pháp luật tố tụng hành chính quy định phương thức phân định thẩm quyền cụ thể giữa các Toà án. Khoản 2 Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hổ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết.

Việc xác định thẩm quyền giải quyền vụ án hành chính thuộc về Toà án nào trong nhiều trường hợp không phải là vấn đề dễ dàng. Ví dụ: việc xác định thẩm quyền của Toà án căn cứ vào nơi xảy ra khiếu kiện hay nơi người khởi kiện, người bị kiện cư trú. . . Vì vậy, ngoài quy định này, cần liên hệ và vận dụng đồng bộ các quy định khác về thẩm quyền của Toà án, như Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chínhvà các quy định khác có liên quan.

* Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Toà án Nhân dân cấp xét xử.

– Thẩm quyền tiến hành xét xử sơ thẩm khiếu kiện hành chính. Pháp luật thủ tục hành chính Việt nam quy định toà án Nhân dân cấp huyện, toà án Nhân dân cấp tỉnh, toà hành chính Toà án Nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hành chính theo quy định của Pháp luật.

Toà án sơ thẩm có quyền áp dụng mọi biện pháp do luật quy định để kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án nhằm xác định tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Trong Khoảng thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây:

– Đưa vụ án ra xét xử.

– Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án ( Khoản 1 Điều 40 Pháp luật giải quyết khiếu nại tố cáo ).

– Đình chỉ việc giải quyết vụ án ( Khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. )

Việc xét xử sơ thẩm thường được tiến hành công khai nên Nhân dân có thể tham dự phiên toà để chứng kiến, giám sát hoạt động xét xử của toà án. Bản án quyết định của toà án ghi nhận toàn bộ kết quả giải quyết vụ án hành chính, quyết định có tính hợp pháp hay không hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc khi bị khiếu kiện. Bản án của toà án góp phần giúp cho đương sự và quần chúng Nhân dân được hiểu biết hơn về Pháp luật từ đó nâng cao ý thức tôn trọng Pháp luật và chấp hành Pháp luật.

* Thẩm quyền và xét xử phúc thẩm khiếu kiện hành chính phúc thẩm là việc xem xét lại những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của toà án cấp dưới khi có kháng cáo kháng nghị ( Điều 60 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ).

Pháp luật thủ tục hành chính Việt nam quy định những cơ quan có thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Đó là toà phúc thẩm toà án Nhân dân tối cao, toà hành chính toà án Nhân dân cấp tỉnh , toá án cấp phúc thẩm có thẩm quyền cụ thể được quy định tại Khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi bổ sung.

– Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm.

– Sửa 1 phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bán án, quyết định sơ thẩm;

– Huỷ bản án , quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ mà toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được:

+ Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 40 của Pháp lệnh này.

+ Đình chỉ. .

+ Đối với trường hợp có nhiều người kháng cáo, thì toà án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm, nhưng không xem xét nội dung kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt nói trên.

– Thành phần của Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 thẩm phán ( Khoản 3 Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ). Do mục đích của xét xử phúc thẩm là sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật để bảo vệ lợi ích ỡƠÁG

 

 

¿

 

 

³z

bjbjŽÙŽÙ

 

 

%´ỡ³ỡ³›vÿÿÿÿÿÿ]

 

 

ƯƯƯƯ8ịỡƠÁG

 

 

¿

 

 

³z

bjbjŽÙŽÙ

 

 

%´ỡ³ỡ³›vÿÿÿÿÿÿ]

 

 

ƯƯƯƯ8ịung kháng cáo, kháng nghị và quyết định của toà án cấp phúc thẩm.

* Thẩm quyền vòng xét xử Giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính theo Khoản 1 Điều 7 Uỷ Ban Thẩm phán TANDTC có thẩm quyền Giám đốc thẩm tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực Pháp luật bị kháng nghị theo quy định của Pháp lệnh tố tụng hành chính. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của các toà phúc thẩm.

+ Hội đồng thẩm phán toà án Nhân dân tối cao ( Cơ quan cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm ) có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án, quyết định đã cso hiệu lực Pháp luật của Uỷ Ban Thẩm phán TANDTC bị kháng nghị.

+ UB thẩm phán Toà án cấp tỉnh, Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toá án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.

+ Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, toà án phải mở phiên toà Giám đốc thẩm, tái thẩm.

– Theo Khoản 4, 5 Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm, tái thẩm của toà án hành chính tối cao bao gồm 3 thẩm phán, Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán toà án Nhân dân tối cao, UBTPTA cấp tỉnh khi xét xử theo thủ tục Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia.

– Sau khi nhận hồ sơ vụ án. Một trong các thành viên của Hội đồng xét xử chia trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án đề trình bày nội dung vụ án. khi có kháng nghị tại phiên toà. Kiểm sát viên được viện trưởng viện kiểm sát uỷ quyền tham gia tại nhiều phiên toà để trình bày ý kiến của viện kiểm sát về giải quyết vụ án. Trong trường hợp toà án có triệu tập các đương sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì họ được trình bày ý kiến trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án.

– Theo Điều 72 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính thì Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền:

+ Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật.

+ Sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật khi bị kháng nghị.

+ Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh như Đương sự là cá nhân đã chết, pháp nhân giải thể mà không có cá nhân, pháp nhân thừa kế quyền nghĩa vụ, nguyên đơn rút đơn kiện, thời hạn khởi kiện đã hết trước ngày toà án thụ lý khởi kiện, sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

2. 3 Thực trạng Tài phán hành chính .

Giải quyết khiếu kiên hành chính là một vấn đề hết sức nhạy cảm, luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Về phương diện góc độ hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử hành chính còn mang tính hình thức, kém hiệu quả chưa phản ánh được thực chất, tình hình khiếu kiện ở nước ta.

a) Công tác xét xử khiếu kiện năm 1998.

– Sơ thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 292 vụ án trong đó xét xử 107vụ việc ; Đình chỉ 58 vụ; Tạm đình chỉ 20 vụ.

– Phúc thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 80 vụ án trong đó xét xử 68 vụ; Đình chỉ 4 vụ; Tạm đình chỉ 0 vụ.

– Phúc thẩm TANDTC thụ lý 52 vụ án trong đó xét xử 20 vụ việc; Đình chỉ 11 vụ; Tạm đình chỉ 0 vụ.

– Giám đốc thẩm, tái thẩm TANDTC thụ lý 11 bản án: Bác kháng nghi 0 bản án; sửa bản án quyết định 5 bản án; huỷ bản án quyết định 5 bản án.

b) Công tác xét xử khiếu kiện năm 1999.

– Sơ thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 484 vụ án trong đó xét xử 194 vụ việc ; Đình chỉ 98 vụ; Tạm đình chỉ 35 vụ.

– Phúc thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 142 vụ án trong đó xét xử 103 vụ; Đình chỉ 6 vụ; Tạm đình chỉ 15 vụ.

– Phúc thẩm TANDTC thụ lý 90 vụ án trong đó xét xử 36 vụ việc; Đình chỉ 10 vụ; Tạm đình chỉ 3 vụ.

– Giám đốc thẩm, tái thẩm TANDTC thụ lý 20 bản án: Bác kháng nghi 1 bản án; Sửa bản án quyết định 10 bản án; Huỷ bản án quyết định 4 bản án.

c) Công tác xét xử khiếu kiện năm 2000.

– Sơ thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 539 vụ án trong đó xét xử 214 vụ việc ; Đình chỉ 168 vụ; Tạm đình chỉ 37 vụ.

– Phúc thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 147 vụ án trong đó xét xử 68 vụ; Đình chỉ 9 vụ; Tạm đình chỉ 0 vụ.

– Phúc thẩm TANDTC thụ lý 212 vụ án trong đó xét xử 72 vụ việc; đình chỉ 4 vụ; tạm đình chỉ 0 vụ.

– Giám đốc thẩm, tái thẩm TANDTC thụ lý 26 bản án: Bác kháng nghi 1 bản án; Sửa bản án quyết định 15 bản án; huỷ bản án quyết định 9 bản án.

Qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo bên cạnh những mặt đạt được thì còn có một số hạn chế cơ bản sau:

Thứ nhất, Tình hình khiếu kiện của công dân ở các địa phương có chiều hướng gia tăng, đáng lưu ý là tình trạng khiếu kiện đông người phức tạp kéo dài trong nhiều năm do không được giải quyết hoặc giải quyết không đúng Pháp luật.

Tại Điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, quy định Điều kiện và thời hạn khởi kiện. Điều kiện này dễ dàng làm cho người khởi kiện bị mất quyền khởi kiện nếu thời hạn khởi kiện. Như vậy, dẫn đến tình trạng bất hợp lý bởi vì đại đa số những người khởi kiện vẫn không biết được toà án tham gia vào cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính bằng thủ tục tố tụng. Một phần phải nói đến nhận thức và sự hiểu biết của người dân về thời hạn, thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính còn rất thấp.

Đây là một nguyên nhân và hạn chế thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Toà án.

Thứ 2: Nhiều trường hợp cơ quan Nhà nước làm sai nhưng khi dân khiếu kiện lại không giải quyết kịp thời hoặc giải quyết không khách quan, thấy sai không chịu sửa, bao che cho cấp dưới. Việc xử lý các hành vi vi phạm và kỷ luật cán bộ và sai phạm còn chậm, thậm chí xử lý nương nhẹ đối với người có sai phạm làm cho một bộ phận cán bộ và dân ở nơi có khiếu kiện và người đi khiêú kiện thiếu tin tưởng gửi đơn vượt cấp hoặc trực tiếp đi khiếu kiện lên cấp trên.

Mặc dù trên thực tế, khiếu nại của công dân xảy ra hầu như trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, các vụ việc khiếu kiện vô cùng lớn có chiều hướng gia tăng song Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chỉ quy định 10 loại việc thuộc quyền khiếu kiện hành chính của toà án.

Thứ 3: Qua kiểm tra việc thực hiện khiếu nại tố cáo cho thấy còn “ nể, sợ : giữa quyền hành pháp và tư pháp. Được thừa nhận qua báo cáo công tác nghành toà án năm 2000: “ Giải quyết vụ án hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp vì trực tiếp đụng trạm đến các cơ quan hành chính Nhà nước. Đặc biệt là cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp với toà án địa phương “ Chính vì vậy, một số toà án dè dặt trong công tác xét xử giải quyết vụ án.

Thứ 4: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chưa phát huy đẩy đủ vai trò của mình và tổ hoà giải cơ sở tham gia vào quá trình giải quyết bằng các hình thức hoà giải, giải quyết hành chính, tại cơ sở.

KẾT LUẬT CHƯƠNG II.

Theo quy định của Pháp luật hiện hành (Hiến pháp; Luật tổ chức TAND, Luật khiếu lại, tố cáo ; Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính . . . )thì bắt đầu từ ngày 1-7-1996, Toà án Nhân dân được giao thêm thẩm quyền xét xử. Từ đấy Toà án hành chính thực sự đi vào hoạt động qua 6năm công tác thực hiện thẩm quyền của mình cũng như qua xét xử các vụ án hành chính cho thấy tình trạng người đi khiếu kiện ngày một tăng, vượt cấp. Như vậy cần phải có sự nhìn nhận đánh và giải quyết nghiêm túc của Pháp luật khi có người khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ở nước ta hiện nay thực trạng giải quyết khiếu kiện hành chính chưa đạt được kết cao , Điều đó bộc lộ qua những hạn chế sau:

Thứ nhất: Phạm vi khiếu nại trong Nhân dân rất rộng lớn trên nhiều lĩnh vực chính trị, đời sống-xã hội và số lương vụ việc ngày càng tăng. Trong khi đó toà hành chính chỉ giải quyết trong phạm vi 9 loại viẹc được quy định tại Điều 11 Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính.

Thứ hai: Kinh nghiệm trong công tác tổ chức xét xử các vụ án của toà hành chính còn ít, trình độ hiểu biết về quản lý hành chính, Pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó việc tổ chức xét xử của toà án còn phụ thuộc vào các cấp chính quyền địa phương đã tạo ra tâm lý còn nể sợ .

Như vậy, những hạn chế trên đã làm cho tính khách quan, dân chủ , chất lượng và hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính chưa cao.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG III.

VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.

Để xây dựng một hệ thống Pháp luật về khiếu nại, tố cáo một cách đồng bộ, toàn diện có hệ thống đồng thời cần phải hoàn thiện hệ thống toà án cả về tổ chức lẫn Tài phán hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cần phải giải quyết những vấn đề sau:

3. 1 Hoàn thiện Pháp luật phù hợp với thực tiễn của đời sống KT- XH.

Pháp luật là một phạm trù chủ quan, phản ánh hiện thực khách quan. Sự phản ánh đó xuất phát từ đòi hỏi của đời sống hiện thực không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Pháp luật có sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan thì mới Điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội và mới được xã hội chấp nhận.

Tính khách quan trong hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm Pháp luật cũng đòi hỏi phải khắc phục phù hợp với trình độ nhận thức hiểu biết Pháp luật của Nhân dân , giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa nhu cầu hoàn thiện hệ thống Pháp luật theo những quy luật nội tại của nó với nhu cầu Điều chỉnh Pháp luật của cuộc sống.

3. 2 Hoàn thiện mở rộng thẩm quyền của Toà án hành chính.

Những vấn đề thẩm quyền xét xử của toà án hành chính, Điều kiện để thụ lý giải quyết khiếu nại theo con đường toà án và cơ chế Tài phán hành chính cũng là một trong số những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng toà án hành chính hiện nay còn ít việc. Do vậy, cần phải nghiên cứu chuyển dần giải quyết khiếu nại hành chính sang toà án hành chính theo hướng mở rộng thẩm quyền của toà án hành chính, không chỉ bó hẹp thẩm quyền như quy định tổng 9 vấn đề được khiếu kiện của Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính.

Nên sửa đổi bổ sung Luật khiếu nại, tố cáo về thẩm quyền trình tự, thủ tụcgiải quyết khiếu nại hành chính, hành vi hành chính theo hướng một vụ việc khiếu nại được được giải quyết ở hai cấp hành chính : cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện là cấp có thẩm quyền giải quyết lần đầu, cơ quan cấp trên trực tiếp giải quyết lần tiếp theo. Nếu người khiếu nai không đông ý thì khởi kiện tại toà hành chính. Đồng thời cần sửa đổi Điều kiện để đơn khiếu kiện được thụ lý đơn giản hơn, tạo Điều kiện cho người khởi kiện trước toà theo hướng cải cách thủ tục tư pháp.

3. 3 Xây dưng vầ tăng cường đội ngũ cán bộ, thẩm phán hành chính.

Tuy toà hành chính đã đi vào hoạt động được hơn 6 năm nhưng ở nhiều địa phươngvấn đề tổ chức vẫn chưa thực sự ổn định như các toà hành chính ở vùng sâu, vùng xa trang thiết bị cơ sở vật chất tối thiểu để phục vụ xét xử vẫn còn tạm bợ thiếu tập trung. Tình trạng thẩm phán kiêm nghiệm đây cũng là mọt nguyên nhândẫn đếnhoạt động xet xử chưa đạt được hiểu quả cao.

Do đó cần phải xây dựng và tăng cường đội ngũ cán bộ thẩm phán là một trong những nội dung cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt có trình độ thực sự để giải quyết khiếu nại có hiệu quả cao. bên cạnh đó phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ băng nhiều hình thức đào tạo tập trung, đào tạo ngắn hạn . . . để không ngừng nâng cao trình độ.

3. 3 Trước những vấn đề bất cập ở trên vấn đề nghiên cứu tổ chức hoạt động và thẩm quyền xét xử của TAND là một vấn đề cấp bách. Qua đó mạnh dạn đưa ra những phương án:

Phương án 2: Thiết lập cơ quan Tài phán hành chính thuộcToà án Nhân dân cấp tỉnh và Toà án Nhân dân tối cao . Thẩm quyền xét xử hành chính được phân định theo cấp như sau:

-Toà án Nhân dân cấp huyện có thẩm quyền các vụ án hành chính:

-Toà án Nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền các vụ án hành chính:

Xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của toà án hành chính mà TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử.

Xét xử phúc thẩm những bản án mà chưa có hiệu lực Pháp luật thuộc thẩm quyền của toà hành chính khi có kháng cáo, kháng nghị.

-Toà án Nhân dân tối cao:

Xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của toà hành chính khi mình lấy lên xét xử.

Uỷ ban thẩm phán xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của toà án cấp dưới khi có kháng cao, kháng nghị.

Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án đã có hiệu lực Pháp luật khi có kháng cáo, kháng nghị.

Hội đồng thẩm phán TANDTC có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án đã có hiệu lực Pháp luật của Uỷ ban thẩm phán khi có kháng nghị.

Phương án 1: Để làm tốt chức năng giải quyết các vụ án hành chính, việc xây dựng một cơ chế Tài phán hành chính đơn giản, hiệu quả là cần thiết. Nên chăng cần phải xây dựng cơ quan Tài phán hành chính trực thuộc Chính phủ để giải quyết khiếu kiện của Nhân dân , còn hệ thống Toà án Nhân dân vẫn có vai trò trong việc giải quyết các vụ án hành chính nhưng ở cấp Giám đốc thẩm và chỉ tập trung vào những vấn đề tố tụng hơn là vấn đề thuộc về nội dung chuyên môn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG III

Từ những quan niệm, quan điểm đã nêu trên về Tài phán hành chính việc nghiên cứu đề tài, phân tích thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại để làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn thì cần thiết phải đưa ra để bàn bạc và tìm những phương hướng giải quyết cho các vấn đề về vụ án hành chính nhằm hoàn thiện hơn trong các cơ chế, thể chế, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Sự cần thiết phải: Mở rộng phạm vi đối tượng của khiếu kiện về Tài phán hành chính; Xây dựng và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên trong công tác thẩm phán nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các khiếu kiện hành chính; Hoàn thiện Pháp luật về thẩm quyền của Toà án hành chính. Cải cách cơ cấu tổ chức, sắp xếp hợp lý bộ máy toà án hành chính sao cho vừa có hiệu quả và vẫn giữ được tính khách quan.

 

 

KẾT LUẬN CHUNG

Trong hệ thống các quyền con người quyền công dân ở nước ta thì quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được tồn tại với tư cách là: ”Quyền bảo vệ quyền” . Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo công dân bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của mình công dân bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Đồng thời với việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo thể hiện tính dân chủ của xã hội, tính cực chính trị của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước với xã hội. Để công dân thực hiên đầy đủ quyền khiếu nại tố cáo , cũng như để giải quyết khiếu kiện hành chính có hiệu lực, hiệu quả thì Điều kiện quan trọng hàng đầu của TAND phải có một hệ thống cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn, đầy đủ, đồng bộ.

Nhà nước ta đã xây dựng một hệ thống cơ sở pháp lý cho quyền khiếu nại tố cáo của công dân cũng như quan tâm tới việc giải quyết khiếu kiện hành chính.

Thực tiễn xét xử trong 6 năm qua các cấp toà án ở nước ta đã chững minh giá trị tích cực.

Trước sự phức tạp của các khiếu nại, tố cáo hiện nay việc xác lập thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của toà hành chính Nhân dân đánh giá một bước tiến quan trọng và rất cần thiết trong quá trình tăng cương hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.

Để hiểu rỗ được tính chất, nội dung của thẩm quyền Tài phán hành chính Việt nam khoá luận đã tập trung phân tích cơ cấu hoạt động, đối tượng và thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính.

Qua nghiên cứu Tài phán hành chính cho phép chúng ta rút ra một số kết luận về thực trạng, thực tiễn hoạt động giải quyết khiếu kiện của toà án như sau:

– Tài phán hành chính là một lĩnh vực còn mới mẻ kinh nghiệm giải quyết các vụ việc của toà án hành chính còn hạn chế, tỷ lệ xử sai, thiếu sót, các bản án kháng cáo kháng nghị còn nhiều.

– Tuy nhiên, Tài phán hành chính ở nước ta đã đánh dấu một bước phát triển trên con đường hoàn thiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Xuất phát từ những yêu cầu đòi hỏi của tiến trinh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa và từ nhược điểm trên, khoá luận cũng đã mạnh dạn nêu ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống Tài phán hành chính, là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và cả thời dan dài về sau.