Đề cương Nghị quyết 9 khóa XI – Công ty TNHH MTV Sông Chu

ĐỀ CƯƠNG

giới thiệu Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về

“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu

phát triển bền vững đất nước”

—————-

A. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 9, KHÓA XI

I. Hội nghị thường kỳ, nằm trong Chương trình làm việc toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.

Họp từ ngày 08 đến ngày 14-5-2014 tại Thủ đô Hà Nội.

II. Nội dung bàn 10 vấn đề, chia làm 3 nhóm

Nhóm thứ nhất: Bàn về các vấn đề chuyên đề

1. Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trên cơ sở đó, Hội nghị đã thông qua Nghị quyết “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (Nghị quyết số 33 ngày 09-06-2014).

2. Tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường;

3. Đề án tổ chức Đảng bộ Ngoài nước và đã quyết định đặt Đảng bộ Ngoài nước trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương, giao Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo;

Nhóm thứ hai: Thảo luận và quyết định một số vấn đề về xây dựng Đảng và chuẩn bị tiến tới Đại hội XII của Đảng

1. Thảo luận và thông qua Quy chế bầu cử trong Đảng;

2. Đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện Quy định số l65-QĐ/TW, ngày 18-02-2013 của Bộ Chính trị về lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội;

3. Cho ý kiến về Đề cương Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng;

4. Cho ý kiến về Đề cương Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 trình Đại hội XII của Đảng;

5. Thảo luận tổng kết thực hiện Chỉ thị số 37, ngày 04-8-2009 của Bộ Chính trị khoá X, cho ý kiến về dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng;

Nhóm thứ ba: Thực hiện những công việc thường xuyên, đột xuất của Ban Chấp hành Trung ương

1. Cho ý kiến về Báo cáo các công việc quan trọng BCT đã giải quyết từ HN TƯ 8 đến HN TƯ 9 ( tháng 10/2013 đến tháng 5/2014);

2. Nghe báo cáo về việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 vào vùng biển của Việt Nam và chủ trương, biện pháp của ta.

B. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN NGHỊ QUYẾT SỐ 33 NQ/TW, NGÀY 5/2014, VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; đến nay, trên thế giới đã thống kê có hơn 400 định nghĩa về văn hóa. UNESCO đã định nghĩa văn hóa trong bản tuyên bố về những chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì năm 1982 tại Mexico như sau:

– Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng.

Và khẳng định vai trò của văn hóa là: Văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân; làm cho con người trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới, những công trình vượt trội bản thân.

– Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học – nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng; toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

* Về một số chủ trương, quan điểm của Đảng về văn hóa:

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt tới sự phát triển văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất nước.

– Ngay trong thời kỳ đầu của cách mạng, Đảng ta đã ban hành Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) do cố Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo – Đây được coi là Cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng, có tác động sâu sắc tới phong trào cách mạng Việt Nam, tạo nên phong trào văn hóa cứu quốc phát triển mạnh mẽ trong những năm 1943 – 1945, góp phần giành thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong bối cảnh lịch sử đầu những năm 40 của thế kỷ XX, trước ách thống trị, áp bức bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật, Đề cương văn hoá của Đảng đã trình bày hệ thống các phạm trù, các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa của dân tộc Việt Nam. Những quan điểm tư tưởng trong Đề cương văn hoá có sức thuyết phục sâu sắc và là ngọn cờ tập hợp đông đảo tầng lớp trí thức Việt Nam thực hiện cuộc vận động văn hóa, cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng cho mỗi người, mỗi tầng lớp, giai cấp và toàn dân tộc.

+ Nội dung của Đề cương gồm nội hàm chủ yếu của văn hóa Việt Nam bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật; xác định văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa) mà ở đó, người Cộng sản phải hoạt động, phải lãnh đạo cách mạng chính trị và cách mạng văn hóa. Đề cương xác định xây dựng nền văn hóa ở Việt Nam là văn hóa xã hội chủ nghĩa.

+ Đề cương đã xác định nền văn hóa mới của Việt Nam có tính chất dân tộc và dân chủ; đồng thời xác định 3 nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa ở nước ta thời kỳ này là:

Dân tộc hóa: Chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập.

Đại chúng hóa: Chống lại mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng.

Khoa học hóa: Chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ.

– Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, với vị trí “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo xây dựng và phát huy sức mạnh vĩ đại của nền văn hóa mới Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

+ Tại Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng năm 1960, đã xác định: “Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về vǎn hóa và kỹ thuật là làm cho nhân dân lao động có trình độ vǎn hóa ngày càng cao, nắm được những hiểu biết cần thiết về khoa học và kỹ thuật, áp dụng được những hiểu biết đó vào việc xây dựng một nền vǎn hóa, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, thiết thực phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân”.

+ Đại hội IV năm 1976 của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh: “Phải đưa công tác giáo dục, văn hoá, nghệ thuật tiến lên một bước mạnh mẽ, xây dựng nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân”.

+ Đại hội toàn quốc lần VII của Đảng thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000, đã chỉ rõ: “Nâng cao đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hoá mới, lối sống mới, con người mới, bắt đầu từ mỗi gia đình”.

+ Tiếp đó, ngày 16/7/1998, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã ban hành Nghị quyết về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”- Đây là Nghị quyết chiến lược về văn hóa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và được coi là Cương lĩnh văn hóa trong công cuộc đổi mới đất nước.

II. LÝ DO BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT

Một là, xuất phát từ vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với phát triển kinh tế, văn hoá ngày càng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển của xã hội, của đất nước; văn hoá được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người và bản sắc, cốt cách một dân tộc.

Hai là, trong bối cảnh nước ta đang hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa và sự bùng nổ các phương tiện truyền thông, nhất là mạng internet, đã tác động to lớn, sâu sắc đến nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có những quan điểm chỉ đạo và chủ trương, giải pháp mới về xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người.

Ba là, xuất phát từ thực trạng văn hóa nước ta cũng xuất hiện một số mặt phức tạp, bức xúc, đang suy thoái khá nghiêm trọng, nhất là về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sự xâm nhập các sản phẩm, dịch vụ độc hại, tác động đến nhiệm vụ xây dựng con người, cần được bổ sung về mặt lý luận và đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị để khắc phục.

Bốn là, xuất phát nước ta đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; quá trình đó liên quan mật thiết đến đổi mới tư duy, cách làm và huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực cho sự nghiệp văn hóa.

Năm là, xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước bền vững trong những năm tới cũng đang đặt ra những vấn đề mới về văn hóa, nhất là phải có nhận thức mới về vai trò của văn hóa trong phát triển.

Sáu là, xuất phát từ sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa 8, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực và đạt được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tình hình đất nước ta và thế giới có nhiều thay đổi. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa ban hành khi nước ta mới bước vào kinh tế thị trường giai đoạn đầu, chưa thấy hết mặt trái của cơ chế thị trường, có nhiều vấn đề phát sinh sau này mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII chưa đề cập. Vì vậy, cần bổ sung và sắp xếp, hoàn thiện lại các chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp cho phù hợp. Cụ thể:

III. TÊN GỌI CỦA NGHỊ QUYẾT

– Tên gọi của nghị quyết mới là: “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”

– Tên gọi Nghị quyết vừa kế thừa nội hàm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa 8, vừa nêu được vấn đề mới mà Trung ương đặc biệt quan tâm đó là: “Nhân tố con người và sự phát triển bền vững đất nước”.

+ Vấn đề con người: khi nói về văn hóa cũng là nói về con người, vì văn hóa là của con người, do con người, vì con người. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít trường hợp đã hiểu sai lệch, coi văn hóa là những công việc, những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa như: múa hát, biểu diễn, lễ hội…, không tập trung cho mục tiêu trọng tâm, cốt lõi là xây dựng con người. Do đó, trong Nghị quyết Trung ương lần này có thêm một quan điểm khẳng định vấn đề trọng tâm, cốt lõi của xây dựng văn hóa là xây dựng con người. Thêm từ “con người” vào tên Nghị quyết là để nhấn mạnh, khẳng định điều đó.

+ Vấn đề phát triển bền vững: xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng, phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của mỗi quốc gia, dân tộc.

IV. NỘI DUNG NGHỊ QUYẾT

1. Đánh giá tình hình phát triển văn hoá trong thời gian qua:

1.1 Về kết quả đạt được:

Sau 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hoá đã đạt được những kết quả tích cực:

(1) Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Vai trò của văn hóa ngày càng thể hiện rõ nét hơn trong đời sống xã hội, trong hoạt động của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng; dân trí được nâng lên; quyền con người được tôn trọng.

(Đối với tỉnh ta, trong những năm qua, cùng với chăm lo phát triển kinh tế, các cấp uỷ đảng, chính quyền luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên có sự chuyển biến nhận thức về văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển; tích cực xây dựng và phát triển văn hoá, hướng các hoạt động văn hóa vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người Thanh Hóa kiểu mẫu.)

(2) Nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Đạo đức xã hội được nhìn nhận, đánh giá trên nhiều bình diện mới.

(3) Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú. Môi trường văn hóa đạt được một số tiến bộ. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa” đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ; đến cuối năm 2012, cả nước có 70,8% gia đình được công nhận gia đình văn hóa; trên 1,3 triệu “người tốt, việc tốt”; 67,1% làng, bản, ấp văn hóa, tổ dân phố văn hóa; 57,9% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 61% khu dân cư đạt chuẩn văn hóa.

Ở tỉnh ta, Cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”  đã trở thành phong trào quần chúng rộng khắp, huy động cả hệ thống chính trị, các lực lượng xã hội tham gia. Đến nay, toàn tỉnh có 74% số làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị đăng ký khai trương xây dựng đơn vị văn hoá; 74% hộ gia đình đạt gia đình văn hóa, 68% cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viên, doanh nghiệp đạt văn minh công sở, 77% khu dân cư tiên tiến. Toàn tỉnh có 4.980 nhà văn hóa từ tỉnh đến làng, bản, khu phố. Các công trình văn hóa: Công viên Hội An, Nhà hát Lam Sơn, Quảng trường: Lam Sơn, Lê Lợi, Hàm Rồng; Khu văn hóa tưởng niệm Bác Hồ, Đền thờ Bà mẹ Việt nam anh hùng và các anh hùng liệt sỹ, Thư viện tỉnh, Trung tâm Hội chợ và Triển lãm tỉnh… đã và đang xây dựng và đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá của nhân dân.

Nhiều lễ hội như: Lam Kinh, Lê Hoàn, Mai An Tiêm, Bà Triệu; lễ kỷ niệm khởi nghĩa Ba Đình, Chiến khu Ngọc Trạo,… đã có tác dụng giáo dục truyền thống sâu sắc trong nhân dân. Phong trào xây dựng xã hội học tập trở thành điểm sáng trong cả nước, đã khơi dậy ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, tinh thần hiếu học, sự cần cù, sáng tạo của vùng đất, con người Xứ Thanh.

(4) Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần quan trọng vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Đến ngày 01/01/2013, có 100% đơn vị cấp tỉnh, 78,2% đơn vị cấp huyện, 44,8% đơn vị cấp xã, 46% làng, bản, tổ dân phố trong cả nước xây dựng được thiết chế văn hoá. Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn học – nghệ thuật… có chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh phát triển văn hoá (đến nay, tỉnh ta đã có 1 nghệ sỹ nhân dân, 36 nghệ sỹ ưu tú).

(5) Công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ, nội dung phong phú, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ không ngừng được hiện đại hóa, tận dụng được công nghệ mới. Đến cuối năm 2013, cả nước có 199 cơ quan báo chí, 639 tạp chí, 04 Đài Phát thanh – Truyền hình Trung ương, 67 đài phát thanh truyền hình địa phương với tổng số 198 kênh truyền hình, 64 nhà xuất bản, đã tạo điều kiện cho người dân có nhiều cơ hội lựa chọn, tiếp nhận thông tin, tri thức, góp phần rút ngắn khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền (năm 2012, tỷ lệ hộ gia đình được nghe đài phát thanh là 99,5%, được xem truyền hình là 99,5%, số người dùng Iternet đạt 35% dân số).

Trên địa bàn tỉnh ta, công tác thông tin tuyên truyền và hệ thống thông tin đại chúng có nhiều chuyển biến, nội dung và hình thức thông tin được đổi mới. Đến cuối năm 2013, tỷ lệ phủ sóng phát thanh Trung ương đạt 95%, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 85%; tỷ lệ phát thanh tỉnh đạt 75%, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 65%. Hiện nay, có 5 cơ quan báo chí của tỉnh, 24 văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của các báo ngành, đoàn thể, hội, báo chí Trung ương và thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh được cấp phép hoạt động trên địa bàn.

Cùng với tỷ lệ phủ sóng của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, đài Truyền thanh – Truyền hình các địa phương, Đài Phát thanh – Truyền hình đã tăng thời lượng phát sóng tiếng Thái và tiếng Mông; Báo Thanh Hóa có phụ trương Dân tộc và miền núi… góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa.

(6) Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần cho nhân dân. Đến cuối năm 2013, trong cả nước đã có 48 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt, 3.202 di tích cấp quốc gia, 7.484 di tích cấp tỉnh, 9 di sản văn hoá và thiên nhiên được UNESCO công nhận là di sản thế giới (mới thêm Tràng An được công nhận là di sản văn hoá, lịch sử thiên nhiên của thế giới; di sản văn hoá, lịch sử thiên nhiên được các nhà khoa học Mỹ xác định sự tồn tại 4.000 năm của dân tộc Việt Nam). Nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số được nâng lên.

Trên địa bàn tỉnh hiện có 1.535 di tích lịch sử văn hoá, trong đó Thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới, di tích Lam Kinh xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt; hơn 700 di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, trong đó cấp quốc gia là 141 di tích, cấp tỉnh là 574 di tích, nhiều di sản văn hoá phi vật thể gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc.

Từ năm 1998 đến nay, trên địa bàn tỉnh có gần 300 di tích được trùng tu, tôn tạo bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, hơn 400 di tích tại các địa phương được trùng tu, tôn tạo bằng nguồn vốn của địa phương huy động. Các di tích sau khi trùng tu, tôn tạo đã phát huy được giá trị vốn có và phát triển du lịch như: Di tích lịch sử Lam Kinh, Thành Nhà Hồ, đền Bà Triệu, đền Lê Hoàn, đền Đồng Cổ, thái miếu Nhà Lê, phủ Trịnh, di tích Ba Đình, chiến khu Ngọc Trạo… Nhiều giá trị truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của đồng bào các dân tộc được gìn giữ và phát huy như: lễ hội Mừng cơm mới; hội văn hoá các dân tộc miền núi; lễ hội Khai hạ, Mường Đòn, Mường Khô, Mường Xia, Mường Ca Da, Căm Mường, Nàng Han, Đền Thi…

(7) Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được bảo vệ và đảm bảo trên thực tế. Hoạt động văn hóa từng bước thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

Trong thời gian qua, tỉnh ta đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Hoạt động giao lưu văn hoá được quan tâm thực hiện. Tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động hợp tác kinh tế, văn hóa – xã hội, thu hút nhiều tổ chức, nhà hoạt động văn hoá trong khu vực và quốc tế đến tham quan, nghiên cứu văn hóa về Thanh Hóa, như: văn hoá Đông Sơn, hang Con Moong, văn hóa Đa Bút, Gò Trũng, Thành Nhà Hồ, Lam Kinh… đăng cai tổ chức thành công Hội nghị tham vấn các Ủy ban quốc gia UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

(8) Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. (Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hoá, Luật sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh… và Chính phủ đã ban hành các Văn bản để triển khai thực hiện). Đã đầu tư xây dựng thêm nhiều công trình văn hoá, đáp nhu cầu sinh hoạt văn hoá của nhân dân; tỷ lệ chi cho văn hoá ở Trung ương cơ bản đảm bảo tỷ lệ 1,8% tổng chi ngân sách.

(9) Công tác đào tạo cán bộ và chuẩn bị nhân lực cho hoạt động văn hóa được quan tâm hơn. (cả nước hiện có 33 trường đại học, 47 trường cao đẳng, 27 trường trung cấp có đào tạo nhân lực hoạt động văn hoá)

(10) Công tác xây dựng văn hoá trong hệ thống chính trị được coi trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa đạt được kết quả tích cực. (Từ khi Việt Nam là thành viên của WTO, đã và đang tham gia nhiều khuôn khổ liên kết kinh tế, văn hóa quốc tế; đang tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là điều kiện thuận lợi cho văn hóa Việt Nam phát triển).

*Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được Trung ương đã nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hóa. Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế còn nặng về lợi ích kinh tế, coi nhẹ nhân tố văn hóa, con người và môi trường.

1- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và trong xã hội có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội. (Năm 2012, cả nước xảy ra 8.820 vụ vi phạm pháp luật do 13.300 trẻ em, người chưa thành niên gây ra, tập trung nhiều nhất là ở độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi chiếm hơn 60%; độ tuổi từ 14 đến 16 tuổi chiếm hơn 30%). Nhiều giá trị truyền thống, đạo đức nghề nghiệp không còn được coi trọng như trước đây có mặt bị mai một, đảo lộn (kể cả những lĩnh vực được tôn vinh như giáo dục, y tế).

2- Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Theo báo của Tổng cục cảnh sát phòng chống tội phạm, từ năm 1998 đến năm 2013, cả nước đã xảy ra trên 17 nghìn vụ giết người, hơn 199 nghìn trẻ em vi phạm pháp luật, 171 nghìn người nghiện ma tuý.

(Ở tỉnh ta, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân khu vực miền núi còn gặp nhiều khó khăn; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động văn hoá còn thiếu; trang phục, tiếng nói, chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số đang có nguy cơ mai một; một số vùng núi cao còn tồn tại hủ tục, lạc hậu, nạn mê tín dị đoan; tình trạng sử dụng các loại ma túy có chiều hướng gia tăng.)

3- Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhiều nơi còn mang tính hình thức. Công tác xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tham gia vào hoạt động văn hóa với mục đích kiếm lời là chủ yếu, thiếu chức năng giáo dục.

4- Chất lượng tác phẩm văn học nghệ thuật chưa tương xứng với số lượng, còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Các loại hình nghệ thuật truyền thống có xu hướng bị mai một. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác; tính định hướng, tính chiến đấu chưa cao; đấu tranh chống quan điểm sai trái chưa sắc bén, hiệu quả.

5- Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao. (Nước ta hiện có 08 di sản được Unesco công nhận, gồm 05 di sản văn hóa, 02 di sản thiên nhiên và 01 di sản hỗn hợp. Hiện nay, tại các địa phương có di sản thế giới, về mặt hình thức, phần lớn người dân đều vui mừng khi địa phương mình có di sản thế giới, ý thức trách nhiệm của cộng đồng với việc bảo vệ di sản thế giới được nâng lên. Nhưng trên thực tế những nhận thức này chưa tương xứng với nhu cầu bảo vệ di sản; chính quyền và người dân các địa phương có di sản quan tâm nhiều đến việc được hưởng lợi từ di sản hơn là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với việc bảo vệ di sản).

6- Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, còn nhiều yếu kém, chưa trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện con người và đào tạo nhân lực, phát triển tài năng nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước.

7- Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển.

8- Việc khơi dậy và phát huy tiềm năng văn hóa, huy động các nguồn lực xã hội cho xây dựng và phát triển văn hóa còn hạn chế. Chi cho văn hóa ở nhiều địa phương chưa bảo đảm tỷ lệ 1,8% tổng chi ngân sách ở địa phương.

9- Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.

10- Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập.

11- Hoạt động giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài còn hạn chế cả về đầu tư nguồn lực, về tầm nhìn, tính hiệu quả. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. (Trong một số cuộc thi tìm kiếm giọng hát xuất sắc trên truyền hình ở nước ta gần đây, hầu hết các thí sinh tham dự đều tự chọn hoặc được huấn luyện viên chỉ định lựa chọn các ca khúc nước ngoài để thể hiện thay vì hát bằng tiếng mẹ đẻ bởi cho rằng như thế mới xứng tầm với “đẳng cấp” cuộc thi… Chúng ta, không khó để nhận ra những biểu hiện văn hóa nước ngoài xâm nhập hầu hết các mảng của đời sống văn hóa tinh thần nước ta, song hoàn toàn không dễ để nhìn thấy hay đoán biết trước những hậu quả mà nó sẽ mang lại).

*Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do:

– Nhận thức của một số cấp uỷ đảng, chính quyền chỉ chú ý nhiều đến phát triển kinh tế, có nơi, có lúc còn xem nhẹ phát triển văn hoá. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tiền phong gương mẫu, gây ảnh hưởng không tốt đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết.

– Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và thiếu khả thi. Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; việc xử lý những vi phạm trên lĩnh vực văn hóa chưa đủ mạnh nên kết quả còn hạn chế.

– Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

– Tỉnh ta, do địa bàn, địa hình rộng, phức tạp, phong tục tập quán của từng dân tộc có cả mặt tiến bộ lẫn mặt lạc hậu đan xen đã tồn tại lâu đời nên ảnh hưởng đến sự giao lưu và phát triển văn hoá giữa các vùng miền; gặp nhiều khó khăn trong xây dựng văn hóa.

Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về nội dung của Nghị quyết dẫn đến vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lối sống thực dụng vì đồng tiền, vô cảm; một bộ phận nhân dân còn trông chờ, ỷ lại.

Với những lý do trên, tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 11 đã ban hành Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.

2. Dự báo các yếu tố tác động đến sự phát triển văn hoá của nước ta trong thời gian tới

2.1. Về thuận lợi:

– Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung. Thành tựu, kinh nghiệp của những năm đối mới đã tạo cho đất nước sức mạnh tổng hợp lớn hơn. Nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn. Khoa học, công nghệ phát triển mạnh, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa.

– Sự phát triển các hình thức thể hiện mới về văn hóa, nghệ thuật (giao lưu trực tuyến, blog, văn học mạng, truyền hình thực tế, sách điện tử,…), xã hội hóa hoạt động văn hóa; mở rộng, đa dạng, đa phương trong giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật,… đang tác động thúc đẩy các hoạt động văn hóa. Các quốc gia trên thế giới chú trọng đến văn hóa với tư cách là “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế.

– Nước ta đang phấn đấu để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải phát huy sức mạnh nội sinh dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân tộc. Dân chủ xã hội ngày càng mở rộng. Các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo, năng động, tích cực hơn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nước nhà trong đó cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

2.2. Những khó khăn, thách thức:

– Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa khắc phục được nhiều.

– Cuộc đấu tranh cho chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc vẫn diễn biến phức tạp; tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải ngày càng gay gắt, khó lường. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, biến đổi khí hậu, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, công nghệ thông tin, sản phẩm độc hại tác động tiêu cực đến văn hóa, gây biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống.

– Tâm lý bao cấp, thụ động; đội ngũ cán bộ quản lý và trình độ chỉ đạo, quản lý văn hóa bất cập; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xa rời mục tiêu xa hội chủ nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực đến cả xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa.

3. Mục tiêu của Nghị quyết:

3.1. Mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

– Giá trị văn hóa là trình độ phát triển các quan hệ nhân tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định thành một hệ giá trị mà chuẩn mực cơ bản là: Chân, Thiện, Mỹ (đây chính là mục tiêu Nghị quyết đang hướng đến để xây dựng nền văn hoá và con người).

– Ở từng thời kỳ cách mạng thì mục tiêu phát triển văn hoá và xây dựng con người là khác nhau. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, phát triển văn hoá và xây dựng con người để phục vụ cách mạng giải phóng dân tộc, cải tạo xã hội (Đề cương văn hoá năm 1943 đã xác định phát triển nền văn hóa mới của Việt Nam để chống lại văn hoá phát xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hoá ngu dân và phỉnh dân và phát triển văn hoá cứu quốc đã góp phần quan trọng vận động nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa vào năm 1945). Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu phát triển văn hoá và xây dựng con người phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, mục tiêu phát triển văn hoá trong Nghị quyết lần này nhấn mạnh “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc…”. Sự phát triển văn hóa và con người sẽ tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ở khía cạnh khác, văn hóa là biểu hiện của sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng của con người, của một dân tộc. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền vững, ngoài dựa vào các như tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn…; cần phải biết khai thác nguồn lực con người, tiềm năng sáng tạo của con người; mà tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối sống, ý chí, nghị lực, tài năng và sự thành thạo công việc của mỗi cá nhân và cả cộng đồng (hiện nay đang là vấn đề cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới; trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự phát triển không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là nguồn lực con người); do đó, văn hoá là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo phát triển bền vững của đất nước.

Nhận xét về vai trò của văn hoá, Đại văn hào M.Goóc-ki đã khẳng định: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi: Hỡi các công dân, văn hóa lâm nguy”.

– Mục tiêu xây dựng văn hoá được Trung ương xác định trong Nghị quyết Trung ương IX, cũng là kết quả của việc tư duy, sáng tạo và ngày càng hoàn thiện lý luận về văn hoá của Đảng, đó là: từ việc xác định văn hoá là một trong 3 mặt trận mà người cộng sản cần quan tâm (Đề cương văn hoá năm 1943); đến một trong 3 cuộc cách mạng phải tiến hành đồng thời (Đại hội IV của Đảng); rồi nâng lên thành: văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội (Nghị quyết Trung ương 5 khoá XIII); đến Nghị quyết Trung ương IX khẳng định “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc…”

1.2. Mục tiêu cụ thể:

– Về nội dung:

+ Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam.

+ Tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật.

+ Đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.

– Về điều kiện:

+ Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

+ Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình.

+ Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách.

– Về thể chế:

+ Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

+ Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.

+ Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.

– Một số chỉ tiêu văn hóa đến năm 2020 trong các chiến lược phát triển ở các lĩnh vực của ngành văn hóa, thông tin do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: 100% số tỉnh, thành phố có đủ các thiết chế văn hóa; 90-100% số quận, huyện, thị xã có nhà văn hóa và thư viện; 80-90% số xã, thị trấn có nhà văn hóa; 60-70% số làng, bản, ấp có nhà văn hóa; phủ sóng truyền hình số mặt đất đạt 80% địa bàn dân cư; đạt 01 bản sách/mỗi người trong thư việc công cộng; đạt 05 bản sách/mỗi người/năm; đạt 01 lượt người/năm đến rạp xem phim điện ảnh; 100% di tích quốc gia đặc biệt, 70% di tích quốc gia được Nhà nước đầu tư bảo tồn; 70-80% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 65-70% số làng, bản, khu phố đạt tiêu chuẩn làng, bản, khu phố văn hóa; 80% “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa” theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cơ bản đưa các dân tộc thiểu số rất ít người (có số dân dưới 10.000 người) ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp về văn hóa. (Các mục tiêu cụ thể trên đã được nêu trong các chiến lược, quy hoạch phát triển văn hoá của Chính phủ).

(Mục tiêu của tỉnh ta phấn đấu đến năm 2020: có 50% số xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 50% phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 100% thôn, làng, bản, phố ở các huyện đồng bằng, ven biển và 60% ở huyện miền núi có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch).

2. Quan điểm:

Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, trong bối cảnh quốc tế và đất nước có nhiều biến đổi, đối chiếu nội dung Nghị quyết với thực tiễn, năm quan điểm nêu trong Nghị quyết về cơ bản vẫn còn giá trị, tuy nhiên cần nghiên cứu để bổ sung, phát triển và sắp xếp lại cho phù hợp hơn với giai đoạn hiện nay và sắp tới, nhất là về vấn đề con người.

Quan điểm 1: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

(Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Mục tiêu hiện nay chúng ta đang phấn đấu là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trong đó phải giải quyết hài hoà giữa phát triển kinh tế và văn hoá, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững). Vì vậy, Đảng ta xác định xây dựng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hoá có nhiệm vụ dẫn dắt, điều tiết, định hướng xã hội thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Văn hóa là động lực phát triển đất nước vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người (đã phân tích ở phần mục tiêu); trong đó, mọi hoạt động kinh tế – xã hội phải đặt con người là trung tâm của sự phát triển. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”; do đó, văn hoá có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.

Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; điều đó, khẳng định vai trò quan trọng, quyết định của văn hoá đến sự phát triển của xã hội, của đất nước. Không phải ngẫu nhiên Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) từng khuyến cáo các nước trên thế giới: “Tiếp thêm sức mạnh của nền văn hoá đương thời và nâng nó lên ngang tầm với sự phát triển kinh tế và xã hội” và “Văn hoá cần coi mình là một nguồn bổ sung trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung tâm, vai trò điều tiết xã hội”.

Quan điểm 2: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

Quan điểm 2 nói về tính chất của nền văn hóa. Nền văn hoá tiên tiến chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá yêu nước và tiến bộ, vì sự phát triển toàn diện của con người trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là những giá trị văn hoá được vun đắp qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữa nước của dân tộc ta: Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng  nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống.

– Tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá đó là sự thống nhất về truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết dân tộc và các sắc thái văn hoá khác nhau của 54 dân tộc anh em.

– Đặc trưng nhân văn của văn hoá được thể hiện qua xây dựng nền văn hoá hướng tới giải phóng con người, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hoá của đất nước và nhân loại. (ở chế độ cũ văn hoá chỉ phục vụ tầng lớp quý tộc và chỉ có tầng lớp quý tộc mới được hưởng thụ văn hoá).

– Đặc trưng dân chủ của văn hoá là dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo, nâng cao trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng, đất nước; đề cao trật tự kỷ cương xã hội; đảm bảo mọi người dân đều được hưởng thụ văn hoá.

– Đặc trưng khoa học: Nền văn hoá phải phải được xây dựng trên lập trường khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế; chống giáo điều, mê tín dị đoan.

Quan điểm 3: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

– Văn hoá và con người có mối quan hệ biện chứng và không thể tách rời. Đây là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn: văn hóa là do con người sinh ra (vì lẽ sinh tồn và phát triển của mình con người đã sáng tạo ra văn hoá) – nhưng cũng chính văn hóa đã xây dựng nên con người (những giá trị văn hoá đã xây dựng nên ý thức của con người, hướng con người đến chân – thiện – mỹ và hoàn thiện nhân cách con người). Trong xã hội nếu không có con người thì không có văn hóa; mặt khác, nếu không được sinh ra và lớn lên trong môi trường văn hóa thì một cá nhân sẽ rất khó trở thành con người (con người sinh ra không được giáo dục, không được tiếp cận với các hoạt động  văn hoá sẽ không trở thành con người).

Thực tiễn cho thấy, hiện nay sự suy thoái về đạo đức, lối sống của của một bộ phận người dân trong xã hội là hậu quả của việc tách khỏi môi trường văn hóa, không tôn trọng các giá trị văn hóa; ngược lại hoạt động một số loại hình văn hoá chưa hiệu quả, chưa quan tâm phát triển toàn diện con người (giáo dục – đào tạo, văn học nghệ thuật, thông tin truyền thông) đã để lại hậu quả trong xây dựng con người.

Con người là sự kết tinh của nền văn hoá và chính con người là chủ thể của sự nghiệp phát triển văn hoá; do đó, quá trình xây dựng và phát triển văn hoá cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người và thực hiện chiến lược xây dựng con người cũng là thực hiện sự nghiệp phát triển văn hoá (điều này chúng ta cần phải suy nghĩ và vận dụng trong thực tiễn). Cần hướng các hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật thì văn hoá trở thành nhân tố thức đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách.

Quan điểm 4: Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Môi trường văn hoá là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá từ hoạt động sáng tạo, sản xuất, bảo quản, lưu giữ, truyền bá, hưởng thụ và đánh giá các giá trị văn hoá. Xây dựng môi trường văn hoá đồng bộ, tốt đẹp sẽ góp phần ổn định chính trị – xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trong thời gian qua, từ việc thực hiện tốt Cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “xây dựng gia đình văn hoá” đã nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở khu dân cư, góp phần ổn định chính trị – xã hội, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.

Quan điểm 5: Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá. Các tầng lớp nhân dân là chủ thể, nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

3. Nhiệm vụ:

3.1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

– Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách.

Đây là mục tiêu, nhiệm vụ xuyên suốt của Nghị quyết về văn hoá lần này; nhằm phát huy vai trò của văn hoá trong xây dựng con người. Trong đó, văn hoá sẽ  phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của con người Việt Nam; xây dựng và phát triển toàn diện con người đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng con người Việt Nam phải có những đức tính sau:

+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phát huy nội lực, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và tụt hậu.

+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tuân thủ pháp luật, tôn trọng quy ước của cộng đồng, chăm lo xây dựng cộng đồng.

+ Không ngừng nâng cao tri thức, học tập suốt đời; biết suy nghĩ độc lập và tự chịu trách nhiệm, đồng thời có tinh thần hợp tác, làm việc hiệu quả trong tổ chức, theo nhóm chuyên môn; có tư duy cởi mở với cái mới (đây là vấn đề quan trọng, nhằm khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục bộ… Tỉnh ta, có một tài liệu đã đúc kết: con người Xứ Thanh còn tồn tại những tâm lý bảo thủ, tự bằng lòng, tự cho mình là tốt, cục bộ, xem thường việc khép kín mình vào các thể chế chung của quốc gia. Trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung nghiên cứu đầy đủ và khắc phục cho được những hạn chế về tâm lý của người Thanh Hoá thì mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, xây dựng tỉnh ta trở thành tỉnh tiên tiến);

Xây dựng con người Việt Nam không ngại đương đầu với thách thức; năng động, sáng tạo; nỗ lực tiếp cận và vận dụng những kiến thức tiên tiến nhất của khoa học, công nghệ thế giới phục vụ phát triển đất nước; rèn luyện thể lực, nâng cao thể trạng; tu dưỡng, bồi bổ cả kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và đạo làm người.

*Vận dụng vào thực tiễn, hiện nay, Tỉnh ta đang thực hiện xây dựng 5 đức tính cao quý của con người mới, con người Xứ Thanh, đó là:

– Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.

– Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

– Có lối sống lành mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

– Lao động chǎm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, nǎng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

– Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

Trong 5 đức tính, phẩm chất nổi bật của con người Thanh Hóa cần được bồi đắp, phát huy, đó là: lòng yêu nước, yêu quê hương; tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc, nỗ lực vượt qua khó khăn; tính cộng đồng, đoàn kết, trọng nghĩa tình; sự hiếu học, sức sáng tạo không ngừng.

*Vừa qua UBND tỉnh đã ban hành bộ tiêu chí kiểu mẫu, trong đó tiêu chí xây dựng công dân gương mẫu gồm:

– Một là, gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy định của cơ quan nơi công tác và địa phương nơi cư trú.

–  Hai là, yêu Tổ quốc, yêu quê hương, sống có lý tưởng cách mạng, có sức khỏe, năng động, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, không ngừng nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; có lòng nhân hậu, có tinh thần hợp tác quốc tế.

– Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có ý thức tập thể, có tinh thần tự nguyện vì lợi ích chung, có ý chí vươn lên trong học tập, công tác, sản xuất, kinh doanh và làm giàu chính đáng.

– Bốn là, có lối sống văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh, trung thực, nhân nghĩa, đoàn kết, sản xuất, kinh doanh giỏi. Đạt các danh hiệu xuất sắc của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.

Xây dựng con người là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp; vì vậy, cần phải tập trung các hoạt động văn hoá để giáo dục, xây dựng con người với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, tạo điều cho con người phát triển toàn diện, cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển quê hương, đất nước).

– Trước hết, cần tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

– Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân – thiện – mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. (Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI về giáo dục và đào tạo đã khẳng định: Đổi mới chương trình giáo dục nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân của học sinh)

– Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập.

– Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. (Trung ương đã giao cho các cơ quan chức năng tiến hành đúc kết giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam).

– Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội.

– Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

– Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người.

3.2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

(Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng con người phát triển toàn diện)

– Trước hết, phải xây dựng mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.

– Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người.

– Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ.

– Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

– Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa.

– Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời, đẹp đạo”.

Tóm lại, để xây dựng đời sống văn hoá và môi trường văn hoá lành mạnh, cần phải tăng cường thực hiện quy chế dân chủ, khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người dân được tổ chức và tham gia sinh hoạt văn hoá cộng đồng; xây dựng xã hội học tập; thực hiện nghiêm pháp luật, phòng chống tham nhũng, ngăn chặn và trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội và những hành vi vi phạm pháp luật.

Gắn kết chặt hoạt động xây dựng đời sống văn hoá với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với từng khu vực, vùng miền, dân tộc, tôn giáo. Chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và ở vùng đồng bào theo đạo của tỉnh. Hướng các hoạt động văn hoá vào thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, nâng cao dân trí, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số, phấn đấu xây dựng tỉnh ta trở thành tỉnh tiên tiến;

Nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình, thôn, bản, khu phố văn hoá; đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận động xây dựng cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp… đạt tiêu chuẩn văn hoá, nếp sống văn minh. Tập trung thực hiện tốt Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, đưa Phong trào đi vào chiều sâu, có kết quả thiết thực, trở thành phong trào của toàn xã hội.

3.3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế

– Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước; nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, gương mẫu thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; đổi  mới tác phong, lề lối, nâng cao chất lượng làm việc, gần dân, sát dân, tăng cường phục vụ nhân dân; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên…. Trong đó, kết quả thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và phong trào xây dựng cơ quan, đơn vị văn hoá là những nội dung quan trọng để xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước.

Trong thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp uỷ đảng tích cực triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.  Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban và triển khai thực hiện hành Quyết định số 1089-QĐ/TU, ngày 19/8/2013 về Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; khẳng định mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; ban hành Quyết định 1254-QĐ/TU, ngày 24/10/2013 Quy định về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; đã đạt được một số kết quả bước đầu: Một số sở, ban, ngành đã có những quy định khá cụ thể về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên gương mẫu trong sinh hoạt đảng, trong thực hành cần, kiệm, liêm, chính, yêu cầu gương mẫu của bản thân và gia đình. Một số địa phương, đơn vị, cơ quan, trách nhiệm nêu gương được quy định trong quy chế làm việc. Nhiều đồng chí bí thư cấp uỷ, đoàn thể, tổ chức hội, gương mẫu trong xây dựng mô hình và phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá; nêu gương làm theo tấm gương đạo đức và phong cách của Bác, dân chủ, gần dân, lắng nghe nhân dân…). Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên cũng là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng.

– Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa.

(Văn hoá trong kinh tế được thể hiện thông qua xây dựng nền kinh tế lành mạnh, công bằng; mọi hoạt động kinh tế phải vì sự phát triển của con người, tuân thủ các quy định của pháp luật. Trong đó cần chú trọng xây dựng đội ngũ doanh nhân có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật; có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình, cho đất nước; có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng, xã hội và có đạo đức, văn hoá kinh doanh).

3.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa

– Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.

(Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hoá là nhiệm vụ then chốt của chiến lược phát triển văn hoá. Đến nay, toàn tỉnh đã quan tâm tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp các di tích lịch sử văn hoá, như: quần thể di tích Lam Kinh, Thái Miếu Nhà Lê, đền Bà Triệu, di tích đền Đồng Cổ, đền Lê Hoàn… Tuy nhiên, hiện nay, một số di tích đang bị xuống cấp, giảm giá trị; việc khai thác giá trị các di tích lịch sử – văn hóa trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế. Trong thời gian tới, ngành Văn hoá – Thể thao và Du lịch tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hoá để đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch, tăng cường giáo dục truyền thống cho nhân dân).

– Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội.

– Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài.

– Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị.

(Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là động lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người.

Nhiệm vụ trung tâm của văn học, nghệ thuật của tỉnh ta thời gian tới là phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người. Đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động văn học, nghệ thuật; giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ; đồng thời đấu tranh ngăn chặn, loại bỏ những tác phẩm văn hóa độc hại, những quan điểm sai trái trên mặt trận tư tưởng; phê phán những thói hư, tật xấu, tiêu cực đang cản trở sự phát triển. Xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật Thanh Hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, rõ nét hương sắc xứ Thanh, xây dựng công dân kiểu mẫu.)

– Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên mạng Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên.

3.5. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa

– Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

– Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội.

– Đổi mới và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá và công nghiệp văn hoá.

(Thể chế văn hoá là hệ thống các quy định về quản lý, xây dựng và phát triển văn hoá, bao gồm: hệ thống tổ chức, bộ máy cán bộ trên lĩnh vực văn hoá; cơ chế hoạt động và phối hợp của các tổ chức văn hoá; hệ thống chính sách văn hoá; hệ thống các thiết chế văn hoá từ Trung ương đến cơ sở.

Hoàn thiện thể văn hoá cần tập trung hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách về văn hoá toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; điều chỉnh, bổ sung những chính sách đã ban hành cho phù hợp với thực tiễn; loại bỏ những cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở sự phát triển. Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hoá, nhất là ở cơ sở (nhà văn hoá, trạm bưu điện văn hoá xã, thư viện, đài phát thanh, sân chơi, trung tâm văn hoá)…. gắn với xây dựng nông thôn mới.)

– Củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến địa phương.

3.6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

– Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc.

(Trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay, ngoại giao văn hoá giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Xu thế mở rộng và tăng cường giao lưu, hợp tác về văn hoá của nước ta với thế giới là tất yếu. Ngày nay, việc giao lưu, hợp tác văn hoá không chỉ thuần tuý vì mục đích phát triển văn hoá, mà thông qua đó, mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị). Chú trọng phối hợp chặt chẽ giữa các hoạt động văn hoá với quảng bá du lịch và xúc tiến thương mại, hợp tác đầu tư.)

– Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.

4. Giải pháp:

4.1. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa.

– Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển vǎn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

– Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng:

+ Bảo đảm để vǎn hóa, vǎn học – nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn;

+ Khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo. Phải coi trọng xây dựng vǎn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

4.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa

– Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông.

– Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.

– Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

– Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường.

4.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa

– Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.

– Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học, trên đại học trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.

– Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.

4.4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa

– Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy.

– Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.

– Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư… có thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao…).

– Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người.

5. Tổ chức thực hiện:

Trung ương yêu cầu:

– Các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức việc học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết.

– Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hệ thống pháp luật về văn hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.

– Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản dưới luật; chỉ đạo tổ chức tốt việc thi hành pháp luật; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với yêu cầu thực tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.

– Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ THANH HÓA