Đẩy mạnh cải cách thể chế hành chính để tạo động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế và phát triển bền vững
Thực hiện quan điểm chỉ đạo nêu trên của Đảng, Nhà nước, việc cải cách thể chế hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 đã đạt những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước. Đó là, hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tiếp tục được hoàn thiện; bộ máy hành chính nhà nước từng bước được kiện toàn; Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương đã nỗ lực và quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức làm việc, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Ảnh minh họa
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ KẾT QUẢ CẢI CÁCH THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2016-2020
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm của cải cách thể chế hành chính giai đoạn 2016-2020 là “Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ – pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử”. Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 22/7/2016 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đã cụ thể hóa nhiệm vụ cải cách thể chế hành chính giai đoạn 2016-2020 là “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất công khai, minh bạch, gắn kết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Hình thành và thực hiện nghiêm cơ chế trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất thông suốt trong lãnh đạo, quản lý, điều hành từ trung ương đến cơ sở. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Hoàn thiện cơ chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát triển và cân đối nguồn lực. Xây dựng và ban hành cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật”.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, việc cải cách thể chế hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 đã đạt những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước. Đó là, hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tiếp tục được hoàn thiện; bộ máy hành chính nhà nước từng bước được kiện toàn; Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương đã nỗ lực và quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức làm việc, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Có thể khái quát kết quả cải cách thể chế hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 thành những nhóm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đã tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, hiệu quả. Theo hướng này, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức rà soát, đánh giá, xây dựng dự thảo để trình Quốc hội khóa XIV sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và quản lý biên chế. Trong đó có những đạo luật hết sức quan trọng, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Đặc biệt, đã thực hiện nhất quán, xuyên suốt chủ trương, quan điểm không lồng ghép các quy định về tổ chức bộ máy, biên chế vào các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ hai, đã tiếp tục rà soát điều chỉnh các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước. Theo đó, đã tổ chức rà soát, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và của từng cấp chính quyền địa phương nhằm khắc phục tình trạng cắt khúc, chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ trong quản lý nhà nước, bảo đảm sự liên thông, đồng bộ, thống nhất, gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận; thực hiện có hiệu quả nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.
Cũng trong nội dung này, ngay từ năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực để thực hiện đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương và giữa chính quyền cấp trên với chính quyền cấp dưới; giao quyền chủ động cho cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả trong quá trình thực hiện đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương (đã được thay thế bởi Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước). Đồng thời, đã tổ chức rà soát, chuyển một số nhiệm vụ mà các bộ, ngành, cơ quan nhà nước không cần thiết phải thực hiện cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đảm nhận; thực hiện lộ trình sắp xếp lại và giảm tối đa việc Nhà nước tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh tế thông qua các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, Chính phủ đã ban hành các văn bản tiếp tục sắp xếp cơ cấu tổ chức các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn với các tiêu chí cụ thể. Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy đã phù hợp hơn với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng loại cơ quan, đơn vị, địa phương. Đã kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động (Đề án cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2020 đã được thiết kế theo hướng điều chỉnh hợp lý hơn về ngành, lĩnh vực quản lý giữa các bộ, cơ quan ngang bộ để xác định hợp lý số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ). Xác định rõ tiêu chí thành lập phòng, vụ, cục, tổng cục và tương đương thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác, số lượng vị trí việc làm và số công chức, đầu mối trực thuộc tối thiểu cần có đối với từng loại đơn vị; qua đó, các bộ, cơ quan ngang bộ sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bên trong để giảm tối đa cấp trung gian, thu gọn đầu mối, giảm biên chế, giảm số lượng lãnh đạo cấp phó và người giữ “hàm” lãnh đạo, quản lý; sắp xếp lại tổ chức bộ máy ở một số lĩnh vực tổ chức theo ngành dọc hoặc đã phân cấp cho địa phương quản lý. Chính phủ chỉ đạo thực hiện nhất quán Nghị quyết số 18-NQ/TW và Kết luận số 39-KL/TW của Bộ Chính trị, kiên quyết không chuyển các vụ thành cục, tổng cục; không thành lập mới phòng trong vụ tham mưu thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, trường hợp đặc biệt phải đáp ứng tiêu chí cụ thể do Chính phủ quy định. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, tính chất và yêu cầu hoạt động của cơ quan thuộc Chính phủ phù hợp với đặc thù công việc để xác định mô hình tổ chức thích hợp, không áp dụng mô hình tổ chức như của các bộ; chỉ đạo sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính ở địa phương theo hướng thu gọn đầu mối, giảm cấp trung gian, tăng cường quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để phục vụ tốt nhất yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Thứ tư, căn cứ vào quy định khung của Chính phủ và điều kiện cụ thể, chính quyền 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tổ chức rà soát, sắp xếp tổ chức bên trong của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng kiên quyết thu gọn đầu mối. Đã rà soát, giảm số lượng các ban chỉ đạo, tổ chức phối hợp liên ngành ở cả Trung ương và địa phương; giải thể những tổ chức không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả. Sắp xếp lại các đơn vị, văn phòng chuyên trách giúp việc các ban chỉ đạo, tổ chức phối hợp liên ngành; chỉ duy trì đơn vị chuyên trách giúp việc hiện có nếu thực sự cần thiết nhưng phải bảo đảm tinh gọn, hiệu quả. Từng bước thực hiện sáp nhập, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã bảo đảm đúng tiêu chí quy định; đổi mới việc phân loại đơn vị hành chính để làm cơ sở xác định cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế phù hợp với quy mô và đặc thù từng loại đơn vị hành chính. Rà soát tiêu chí và sắp xếp lại thôn, tổ dân phố nhằm giảm đầu mối, giảm số người hoạt động không chuyên trách, tăng cường hiệu quả hoạt động.
Thứ năm, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và chính quyền địa phương đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tin học hóa quản lý hành chính nhà nước, thực hiện Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, đổi mới phương thức làm việc, giảm hội họp, giảm giấy tờ hành chính, đáp ứng các điều kiện cần thiết khác cho công tác cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; lấy kết quả thực hiện việc sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự tín nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Đặc biệt, để tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, hàng năm Chính phủ ban hành các Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bám sát các tiêu chí và thông lệ quốc tế (Nghị quyết số 19/NQ-CP các năm từ 2014 đến 2018 và Nghị quyết số 02/NQ-CP các năm 2019, 2020, trong đó Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2019 đề ra mục tiêu cho cả năm 2021), các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và ngày càng chủ động, tích cực triển khai các giải pháp trong phạm vi trách nhiệm của mình. Nhờ đó, hàng nghìn rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được dỡ bỏ; nhiều yếu tố, vấn đề về xã hội, quản lý, quản trị liên quan tới chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được chú trọng chỉ đạo giải quyết. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả các bảng xếp hạng quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Mặc dù là nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp (thứ 127), nhưng nước ta vẫn đạt vị trí 70 về Môi trường kinh doanh năm 2019 (tăng 20 bậc so với năm 2015) và thứ 67 về Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (tăng 10 bậc so với năm 2018). Trong 5 năm (từ 2016 đến năm 2020), Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, xếp thứ 63; Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, xếp thứ 39; Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc, xếp thứ 42. Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc, từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020. Ngoài ra, không ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta được ghi nhận tiến bộ vượt bậc như: Tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, xếp thứ 27; Ứng dụng công nghệ thông tin tăng 54 bậc, xếp thứ 41, v.v…
Năm 2020, cùng với nỗ lực phòng chống, kiểm soát tốt đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Năm 2021 có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội nước ta trong tình hình mới; là năm đẩy mạnh phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19; là năm đầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2025. Việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2021 sẽ tạo tiền đề và khích lệ mạnh mẽ cho các năm tiếp theo. Để tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày 10/01/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chính phủ đã chỉ đạo triển khai Kết luận số 77-KL/TW ngày 05/6/2020 của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch COVID-19; xây dựng Đề án khắc phục tác động của dịch COVID-19 trình Bộ Chính trị; báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù, các giải pháp vượt trội, vừa cấp bách, vừa căn cơ, phù hợp với yêu cầu vừa phòng chống dịch COVID-19 hiệu quả, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống Nhân dân. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan, doanh nghiệp ban hành theo thẩm quyền các nghị định, quyết định, các giải pháp cụ thể để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và tận dụng tốt thời cơ phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội, như: giãn, hoãn tiền nộp thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất; cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, miễn giảm phí thanh toán, cho vay mới; tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội; giảm giá điện, tiền điện, giá cước viễn thông…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả rất to lớn và quan trọng nêu trên thì công tác xây dựng và cải cách thể chế nói chung, thể chế hành chính nói riêng trong giai đoạn 2016-2020 cũng còn khá nhiều bất cập, hạn chế, như Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: Hoàn thiện thể chế; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo. Cũng từ thực tiễn công tác quản lý, điều hành Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2020, tại phiên thảo luận đóng góp ý kiến vào các các dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng ngày 10/11/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển: “Thể chế, thể chế và thể chế. Thể chế tiến bộ thì mở cửa cho đất nước phát triển. Cho nên phải đổi mới thể chế, đổi mới trong chính sách, pháp luật”. Trong năm 2021 và hết tháng 8/2022, ngoài các phiên họp thường kỳ, Chính phủ đã tổ chức 01 Hội nghị về công tác thể chế, 08 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật; Thường trực Chính phủ tổ chức nhiều phiên họp cho ý kiến đối với các đề nghị xây dựng và các dự án luật, pháp lệnh. Quy trình cho ý kiến, thông qua các đề nghị xây dựng và các dự án luật, pháp lệnh được Chính phủ xem xét chặt chẽ. Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo quyết liệt các bộ trong việc rà soát, xử lý các văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn, cản trở cho đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội; khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội, phục hồi và phát triển kinh tế. Phát biểu khai mạc Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8/2022 của Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, được xác định rất rõ tại các Đại hội Đảng toàn quốc gần đây. Chính phủ tiếp tục khẳng định công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng, thường xuyên, xác định đầu tư xây dựng thể chế là đầu tư cho phát triển, yêu cầu bộ trưởng, thành viên Chính phủ phải trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật .
Những điều nêu trên cho thấy tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế nói chung (công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế), và cải cách thể chế hành chính để tạo động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế và phát triển bền vững, hướng tới thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước giai đoạn đến năm 2030 và giai đoạn đến năm 2045 đã được đề ra tại Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng có tính tất yếu khách quan và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH ĐỂ TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY PHỤC HỒI KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Một trong ba đột phá chiến lược phát triển đất nước được Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng xác định là đột phá về cải cách thể chế, trong đó có thể chế hành chính, cụ thể là: “Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”. Tại Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng, Chính phủ đề ra nhiệm vụ đầu tiên, ưu tiên hàng đầu là “Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 cũng đặt ra nhiệm vụ đầu tiên, cần ưu tiên thực hiện của cả giai đoạn 2021-2030 là cải cách thể chế hành chính (tiếp đến là các nhiệm vụ: Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công; Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số). Cần nhấn mạnh rằng, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 đều có chung bối cảnh là các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới và Việt Nam phải bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài là phục hồi kinh tế và phát triển bền vững, dù điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước có khác nhau.
Đối với nhiệm vụ phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, Bộ Chính trị khóa XV đã ban hành Kết luận số 24-KL/TW ngày 30/12/2021 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội; Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, Nghị quyết số 46/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Ngày 12/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết số 54/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025… Đó là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng cho việc đẩy mạnh cải cách thể chế hành chính để tạo động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế và phát triển bền vững trong thời gian tới.
Để thực hiện yêu cầu và quan điểm chỉ đạo của Đảng, việc đẩy mạnh cải cách thể chế hành chính để tạo động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế và phát triển bền vững trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung trọng tâm sau đây:
Một là, tập trung xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý nói chung và thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, cạnh tranh nói riêng để thúc đẩy quá trình phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường. Gắn với đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển các loại thị trường và các yếu tố thị trường, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ, kinh tế số và thị trường số theo tinh thần Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII và Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”.
Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế đảm bảo trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi đồng hành với nhau đối với 3 chủ thể nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Đây cũng là chủ trương, định hướng phát triển kinh tế – xã hội của nhiều địa phương có tiềm năng, lợi thế phát triển trong thời gian tới “…, tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ và các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương gắn với ràng buộc trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Thí điểm áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, tăng quyền chủ động về quản lý ngân sách, đầu tư phát triển, quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, hạ tầng đô thị, tổ chức bộ máy, biên chế… đối với một số địa phương trọng điểm để tạo đột phá về tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy liên kết vùng và nhân rộng mô hình có hiệu quả”.
Cần tiếp tục rà soát hệ thống văn bản thuộc thẩm quyền lập quy của Chính phủ, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình cải cách các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025 để phấn đấu đến năm 2030, môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số một cách phù hợp, thực chất và hiệu quả. Sửa đổi, hoàn thiện cơ chế quản lý và phân cấp ngân sách nhà nước, bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; trong đó chú trọng phát huy vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, nhất là trong việc bảo đảm nguồn lực đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trọng yếu và phát triển liên kết vùng miền (như phát triển các tuyến cao tốc cho Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và một số địa bàn quan trọng hiện nay). Đồng thời phát huy mạnh mẽ tính chủ động, đổi mới của ngân sách địa phương nhằm tạo điều kiện tốt nhất có thể cho các cấp chính quyền địa phương linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng các nguồn lực hợp pháp phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng bền vững, tăng tỷ trọng chi đầu tư, giảm tỷ trọng chi thường xuyên, hỗ trợ thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội; thực hiện nghiêm nguyên tắc chỉ vay nợ cho chi đầu tư phát triển. Tiếp tục cơ cấu lại nợ công theo hướng chất lượng, hiệu quả, bền vững. Kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng ổn định, an toàn, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thượng tôn pháp luật và tôn trọng các quy luật thị trường; chủ động phòng ngừa, tránh các hành vi vi phạm quy định về thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán…
Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính nhà nước, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, dành sự ưu tiên hàng đầu cho nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, thị trường khoa học, công nghệ; tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển đất nước; tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội.
Theo hướng này, cần tập trung mọi nỗ lực để đến năm 2025 cơ bản hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính nhà nước, trọng tâm là thể chế về tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển. Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện thể chế và các khung khổ pháp lý để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phục vụ có hiệu quả việc xây dựng, phát triển Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Đến năm 2030, phải hoàn thiện toàn diện, đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế của nền hành chính hiện đại, thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Ba là, cần hướng vào các nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính, chế độ công vụ đầy đủ, đồng bộ trên cơ sở Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Đối với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần ưu tiên hoàn thiện thể chế về sở hữu, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013; thể chế về phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, các yếu tố thị trường và các loại thị trường, bảo đảm mọi người dân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật; thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn thiện thể chế về thu hút đầu tư, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển.
Trên cơ sở Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”, cần sớm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ đảm bảo theo kịp kinh tế số, công nghiệp thông minh; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó, công nghệ thông tin và hạ tầng thông tin đóng vai trò hạ tầng của hạ tầng; phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế số; phát triển hệ thống đối mới sáng tạo quốc gia, thúc đẩy khởi nghiệp trong mọi ngành mọi lĩnh vực, có kế hoạch cụ thể và khả thi để phát triển và làm chủ hệ tri thức Việt số hóa, khơi dậy đam mê khát vọng; cả hệ thống chính trị và xã hội cùng chung tay trong đổi mới sáng tạo, chủ động nắm bắt, khai thác có hiệu quả các cơ hội to lớn của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại; doanh nghiệp vừa là trung tâm, vừa là động lực của sự phát triển công nghệ mới, ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiến đời sống. Phát triển doanh nghiệp số được xác định là nhiệm vụ trung tâm, lâu dài để phát triển kinh tế số ở Việt Nam; xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, sản xuất thông minh, các mô hình sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, khởi nghiệp sáng tạo.
Gắn kết chặt chẽ giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng pháp luật. Theo hướng này, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình lập pháp, lập quy theo hướng chặt chẽ, khoa học, hiện đại, chuyên nghiệp, áp dụng kỹ thuật lập pháp tiến bộ trong soạn thảo; tăng cường tham vấn ý kiến chuyên môn của các hiệp hội, chuyên gia, nhà khoa học và tham vấn ý kiến rộng rãi của người dân, tổ chức và xã hội trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính minh bạch, tính nhất quán, ổn định và dự đoán được của pháp luật. Tăng cường kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời phát hiện và xử lý các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, trái pháp luật, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp. Đồng thời, chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật theo hướng ban hành quy định và tổ chức triển khai có hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật và theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật hàng năm tại các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường năng lực phản ứng chính sách, kịp thời xử lý các vấn đề mới phát sinh trong tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt gắn kết với quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật nói chung; cải cách thể chế hành chính nói riêng. Đổi mới công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước trong công tác tổ chức thi hành pháp luật. Thực hiện hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và số hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tăng cường vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp và cộng đồng trong phản biện và giám sát thi hành pháp luật. Đối với các địa phương, cần bám sát Luật Quy hoạch, các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội các vùng kinh tế trọng điểm… để cụ thể hóa cho phù hợp./.
————————-
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
2. Bộ Chính trị, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
3. Bộ Chính trị, Kết luận số 77-KL/TW ngày 05/6/2020 về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch COVID-19.
4. Bộ Chính trị, Kết luận số 24-KL/TW ngày 30/12/2021 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.
5. Bộ Nội vụ, Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (sách Nhà nước đặt hàng), Nxb CTQG-ST, H.2020.
6. Chính phủ, Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Chính phủ. Nguồn: chinhphu.vn.
7. Chính phủ, Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 22/7/2016 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng.
8. Chính phủ, Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng.
9. Chính phủ, Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
10. Chính phủ, Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
11. Chính phủ, Nghị quyết số 19/NQ-CP năm 2014, năm 2015, năm 2016, năm 2017, năm 2018.
12. Chính phủ, Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2019, năm 2020, năm 2021 và năm 2022.
13. Chính phủ, Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030.
14. Chính phủ, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.
15. Chính phủ, Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H, 2016.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, Nxb CTQG-ST, H, 2021.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG-ST, H.2021.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”.
20. Phạm Thị Thanh Trà (chủ biên), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và những nhiệm vụ đặt ra với Bộ Nội vụ, ngành Nội vụ, Nxb CTQG-ST, H.2021.
21. Phạm Thị Thanh Trà (chủ biên), Xây dựng nguồn nhân lực hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước (sách Nhà nước đặt hàng), Nxb Lý luận chính trị, H.2021.
22. Quốc hội, Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.
23. Quốc hội, Nghị quyết số 46/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV.
24. Quốc hội, Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
TS Trần Nghị – Tổng Biên tập Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Theo: https://tcnn.vn/