Đạo Đức Học

Hạnh phúc con người không chỉ là thỏa mãn các nhu cầu bản năng nhưng còn hệ tại vào các giá trị cao hơn để có một cuộc sống nhân bản. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn nào để chúng ta chọn các giá trị sẽ mang lại hạnh phúc cho đời mình? Nếu cuộc sống chúng ta không hoàn toàn bị định đoạt bởi tính di truyền hay môi trường, thì chúng ta sẽ sử dụng tự do của mình như thế nào? Các nguyên tắc đạo đức phổ quát đến từ đâu? Tôn giáo hay văn hóa? Bản chất của chúng là tương đối hay tuyệt đối? Khách quan hay chủ quan? Bất biến hay thay đổi theo qui luật tiến hóa? Chúng ta có thật sự tự do khi chọn lựa chúng không? Cuối cùng, tại sao chúng ta nên sống đạo đức? Đạo đức học là môn học nghiên cứu về các chủ đề rộng lớn và quan trọng này.

Trong tiến trình phát triển, lịch sử đạo đức học đã tiến hóa theo hai chiều hướng sau đây. Chiều hướng thứ nhất được gọi là “đạo đức qui chuẩn” (prescriptive ethics). Lãnh vực này thống trị triết đạo đức suốt hơn hai kỷ nguyên qua – khởi đầu bằng những truy vấn về mối tương quan giữa tri thức và đức hạnh của Socrates (469-399 BC). Chiều hướng này nghiên cứu các giá trị, nguyên tắc và tiêu chuẩn luân lý, hầu để giúp chọn lựa các hành vi sao cho thích ứng, hợp lý và mang lại “hạnh phúc” cho con người. Đạo đức học qui chuẩn trả lời câu hỏi, “một cá nhân luân lý nên hành xử như thế nào” bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức như: vị kỷ, vị lợi, luật tự nhiên, tôn trọng nhân vị (bổn phận), nhân đức,v.v… Mỗi tiêu chuẩn đạo đức sẽ bao gồm các qui tắc đặt thù để bảo đảm các giá trị nền tảng của chúng được thể hiện cách toàn vẹn.

Chiều hướng thứ nhì mang nặng tính lý thuyết hơn, được gọi là “triết học đạo đức” (philosophical ethics) hay “đạo đức học siêu hình” (meta-ethics). Đây là một hiện tượng mới và được khai thác chỉ trong thế kỷ vừa qua. Triết học đạo đức không đề nghị chúng ta nên hành xử như thế nào, nhưng tra cứu các hình thức lý luận trong suy tư đạo đức. Đạo đức học siêu hình khám phá về bản chất và cấu trúc của ngôn ngữ đạo đức, mối tương quan giữa các khẳng định trong một hệ thống luân lý. Triết đạo đức học tranh luận về các điền kiện để lý luận đạo đức trở thành hợp lý.

Tuy nhiên, triết học không phải là môn học duy nhất xem xét cách cư xử và tính cách đúng đắn của con người. Thần học cũng bàn về các vấn đề cơ bản này. Trong khi thần học luân lý cơ bản dựa trên một viễn tượng đức tin tôn giáo (mặc khải) đã được chấp nhận thì triết học đạo đức cố gắng cung cấp các câu trả lời hoàn toàn dựa trên lý trí và kinh nghiệm. Đối với các tín hữu, giáo thuyết không thể bị tranh cãi (mặc dù cách giải thích về chúng có thể bị tranh cãi), thì trong triết học đạo đức mọi câu hỏi về đạo đức đều có thể được đem ra bàn luận – ngay cả câu hỏi: liệu có một đạo đức học đúng hay không? Tuy nhiên, có một số nhà học giả vừa là triết gia vừa là thần học gia (Augustine, Thomas Aquinas,…) và họ nhận thấy có sự hòa hợp giữa các kết luận của thần học luân lý và triết học đạo đức, mặc dù các điểm xuất phát của hai môn học này cơ bản khác nhau.

Từ “ethics” (đạo đức học) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “ethos”, có nghĩa là “phong tục” (số ít) và “tính cách” (số nhiều). Từ “morality” cũng có nghĩa tương đương như trong tiếng Hy Lạp, bắt nguồn từ tiếng Latin “mos” (và mores ở số nhiều). Hạn từ “ethics” thì thông dụng hơn trong phạm vi triết học, còn “morality” thì được dùng nhiều hơn khi nói về thần học luân lý. Từ các nghĩa gốc này chúng ta thấy là đạo đức học liên quan đến cả “hành vi” (phong tục) chúng ta nên làm lẫn “tính cách” (loại người) chúng ta muốn trở thành. Mối tương quan này rất quan trọng trong sự phát triển đạo đức học. Vì lẽ, “tính cách” (character) của chúng ta được hình thành chủ yếu từ những thói quen hành động của mình. Mặt khác, thói quen thực hành các hành vi tốt sẽ giúp chúng ta tối đa hóa khả năng chọn lựa điều tốt nhất trong mọi hoàn cảnh, và như thế sẽ tạo nên một “tính cách thứ nhì” cho mình (virtues ethics). Các nghĩa gốc này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta gọi đạo đức học là học về cách phải sống đời mình thế nào, phải cư xử và sở hữu những tư cách nào đúng đắn để trở nên một con người có nhân bản.

1. Phạm vi truy vấn của Đạo Đức Học

Truy vấn về đạo đức học bao gồm những loại câu hỏi gì? Và đâu giới hạn của lý luận đạo đức học? Triết học Tây Phương, từ Socrates cho đến Wittgenstein đều nhận thấy truy vấn về đạo đức học là một nguồn phát sinh chính yếu cho các vấn nạn lớn trong triết học. Hầu như trong mọi nền văn hóa tồn tại trong lịch sử nhân loại đều có những nổ lực tìm kiếm những gì mang lại hạnh phúc cho con ngưởi. Ai cũng muốn biết thế nào là cuộc sống tốt. Đâu là những tư cách đáng tôn trọng nơi con người? Ta có thể đòi hỏi trách nhiệm hay bổn phận gì giữa các cá nhân và tập thể có tương quan huyết thống, xã hội, hay quốc gia? Hiểu biết về đạo đức có thật sự đưa đến hành vi đạo đức hay tạo nên một tư cách nhân bản không? Nhưng các triết gia Hy Lạp cổ điển đã nâng các câu hỏi này lên một mức độ phản tình sâu sắc hơn. Họ hỏi: Liệu lý trí con người có khả năng trả lời các câu hỏi trên đây một cách khách quan không? Nếu tri thức đạo đức có thật thì chúng sẽ đến từ đâu? Có thể có các giá trị đạo đức phổ quát, độc lập khỏi giới hạn văn hóa, tôn giáo, tập quán hay luật lệ xã hội không? Một khi chúng ta suy tư cách phản tỉnh như thế thì các câu hỏi này trở thành những vấn nạn cho triết học.

Điều đáng ngạc nhiên là mức độ cấp bách và thiết yếu mà triết Hy Lạp ngay từ ban đầu đã gán cho các câu hỏi này. Họ gắn liền truy vấn đạo đức với sự tồn tại và thịnh vượng của nhà nước, trật tự trong xã hội, và hạnh phúc con người. Nếu chúng ta hỏi thế nào là một bài hát hay hoặc một bác sĩ giỏi thì chúng ta cần tìm các “qui chuẩn” trong mỗi ngành để xác định câu trả lời. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục hỏi liệu các “qui chuẩn” này có đóng góp cho nổ lực xây dựng hạnh phúc và tìm kiếm ý nghĩa chân thực cho cuộc sống thì chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của lý luận đạo đức học. Vì cuối cùng, truy vấn đạo đức học sẽ bao gồm trách nhiệm, bổn phận, tư cách và hành vi có liên quan đến hạnh phúc con người. Đạo đức học lưu tâm đặt biệt về hậu quả tổng thể của hành vi hay chọn lựa trên nổ lực tìm hạnh phúc và sự thiện hảo của con người.

Đạo đức học đóng vai “điều phối” như trên là vì đạo đức học ưu tư đặt biệt về cách chúng ta phán đoán các hành vi nhân bản trong tương quan với nổi lực xây dựng hạnh phúc con ngưởi. Chúng ta phán đoán một cá nhân tùy theo cá nhân đáp ứng hay không đáp ứng cách hợp lý trong niềm tin, cảm xúc hay hành vi của họ. Nhưng trong khi lôgic phán đoán về tính hợp lý của tiến trình suy tư – hành vi có thống nhất với niềm tin hay không – thì đạo đức học nhắm vào mối tương quan giữa động lực và hậu quả của một hành vi và ảnh hưởng tổng thể của nó trên tư cách làm người trong xã hội. Nói như thế có nghĩa là đạo đức học vẫn còn mang nhiều yếu tố cảm xúc vốn là nền tảng cho cách chúng ta đánh giá một cá nhân. Ba yếu tố càm xúc căn bản cho các phán đoán đạo đức mà chúng ta cần xét lại là: trách móc, ca tụng và ước muốn. Hy vọng khi quan sát cá yếu tố cảm xúc này chúng ta sẽ khám phá ra manh mối cho tính phổ quát của phán đoán đạo đức.

Trước tiên, “trách móc” (blame) là một thái độ phổ quát nhất trong phán đoán đạo đức. Khi ta khiển trách một cá nhân vì hành vi bất xứng của họ, ta không chỉ cho rằng hành vi của người đó không đúng mà còn cả động lực của họ là không tốt. Khi ta không chấp nhận hành vi của một chủ thể trưởng thành tức là ta đang đánh giá về tư cách của người đó, và cho rằng người đó “có lỗi” và phải chịu “trách nhiệm” về hậu quả của hành vi của họ. Cho dù cảm xúc sân hận có thể không hiện diện, nhưng trách móc là đã là một hình thức trừng phạt rồi. Mức độ “trừng phạt” thì tùy theo trách nhiệm và tính “có lỗi” của chủ thể. Hệ luận là khi chúng ta nghĩ rằng chủ thể phải chịu trách nhiệm phần nào cho hậu quả của hành vi của mình, thì việc chúng ta khẳng định họ đáng phải bị khiển trách không phải là hoàn toàn vô lý. Vì lẽ, bên dưới sự trách móc là một trực giác cho rằng mọi người phải có trách nhiệm và bổn phận theo đuổi một mức độ hoàn hảo luân lý nào đó.

Tương tự như trên, ca ngợi hay khen thưởng cũng đề lộ một trực giác về tư cách và sự hoàn hảo mà ta ước muốn mọi người nên có. Có những giá trị mà mọi người ao ước được sở hữu như là “cá tính thứ nhì”, e.g., can đảm, nhân từ, cao thượng, sáng tạo, kiên nhẫn, tiết độ, khôn ngoan, tháo vát, lanh lẹ, tế nhị, khỏe mạnh, sung túc, sắc đẹp, etc. Chúng ta có thể tranh luận về mức độ thiết yếu của mỗi giá trị trên đây, tuy nhiên, chúng có một mẫu số chung là khả năng đóng góp vào hạnh phúc và đời sống viên mãn của con người. Như vậy, khi chúng ta đặt vấn đề về những hành vi hay tư cách đáng khen ngợi và ước muốn, tức là ta đang ý thức về những giá trị quan trọng cho cuộc sống. John Stuart Mill – cha đẻ của trường phái thực dụng – không sai khi cho rằng “hạnh phúc là sự ao ước căn bản nhất của con người trong cả lý thuyết lẫn thực hành”.

Cuối cùng, khi chúng ta nghĩ trách móc hay ca ngợi không chỉ là không vô lý mà còn tỏ lộ cho thấy một trực giác luân lý vốn đã tiềm tàng nơi con người thì chúng ta cũng phải công nhận rằng con người là một chủ thể tự do, có động lực riêng tư và phải chịu trách nhiệm cho hành vi và chọn lựa cùa mình. Không ai lên án một đứa trẻ hay một bệnh nhân tâm thần cho hành vi vô luân của họ, nhưng ta trách móc hoặc ca ngợi một cá nhân trưởng thành vì ta giả định sự hiện diện của tự do luân lý khi cá nhân ấy hành động. Vấn đề là cá nhân ấy có thực sự nhận thức các áp lực tâm lý hay xã hội mà mình đang bị chi phối, hoặc khả năng cân nhắc giữa sự tự kiềm chế hay sống buông thả theo các cám dỗ của cá nhân ấy. Tuy nhiên, tự do sẽ là điều kiện tiên quyết và tất yếu cho tất cả phán đoán đạo đức. Không có tự do thì mọi phán đoán đạo đức trở thành vô nghĩa. Như thế, mối tương quan giữa tự do, tất định và sự tiến hóa sẽ là chủ đề tranh luận lớn trong đạo đức học.

Nếu từ những phán đoán thưởng ngày (trách móc, ca ngợi, ao ước) về các hành vi nhân bản ta có thể giả định là con người thật sự có tự do chọn lựa và chịu trách nhiệm cho hành vi của mình, thì tất cả các truy vấn đạo đức học có một chung mục tiêu cơ bản là cung cấp các lý luận khách quan và phổ quát để giúp ta sống đạo đức. Từ đó, các triết gia đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn và giá trị căn bản để bảo vệ cho định nghĩa của họ về đạo đức. Nhưng nếu muốn biết giới hạn của truy vấn đạo đức học thì chúng ta phải trả lời câu hỏi cuối cùng, đó là, “tại sao tôi phải sống đạo đức?”.

Giả sử một hôm trên đường phố vắng, tôi nhặt được một cái ví với một số tiền lớn cùng với tên và địa chỉ của người mất cái ví ấy. Qui luật đạo đức đòi hỏi tôi phải trả lại số tiền ấy cho người bị mất. Nhưng trong vài giây phút, tôi có thể phân vân mình có nên trả lại ví tiền, hay dùng số tiền “may mắn” này để mua một cái điện thoại mới. Câu hỏi là tại sao tôi phải chọn hành vi đạo đức cho dù không ai biết? Có lý do chính đáng nào để tôi chọn sự chính trực thay vì tìm lợi ích cho mình không? Tôi “may mắn” nhặt được ví tiền, nhưng người đánh mất ví tiền thật là kém may mắn. Suy tư như thế này đưa ta đến việc nhận ra mục đích cuối cùng của đạo đức là sự Thiện. Sống đạo đức là sống theo điều thiện, là hành động đúng không vì tư lợi. Đạo đức học giúp ta nhận ra những quy luật cần thiết biết sử dụng tự do theo cách đúng đắn để đạt tới cuộc sống hạnh phúc, phù hợp với nhân phẩm, lý tưởng với mục đích đem lại bình an và lợi ích cho cuộc sống.

Nhưng thế nào là sự thiện? Có phải sự thiện là tìm kiếm những gì tốt cho mình không? Nhưng đâu là giới hạn trong cách chúng ta tìm bình an và lợi ích cho mình? Sống chính trực đòi hỏi ta phải làm gì trong mọi hoàn cảnh? Điều thiện là tốt vì lý do nào, có phải nó tốt là tự bản chất của nó, hay là vì ta muốn chọn nó, và nó sẽ mang lại lợi ích cho ta? Cho dù ta có thể tìm được một định nghĩa khách quan và phổ quát cho sự thiện đi nữa thì trong thực tế, một người làm một việc thiện nhưng với mục đích xấu có phải là người tốt không? Hoặc người khác có ý định tốt nhưng lại làm điều xấu do họ không biết, liệu người ấy có phải là người xấu không? Như thế, định nghĩa khách quan của sự thiện tự nó sẽ không thể trả lời câu hỏi “tại sao ta phải sống đạo đức”. Nhiệm vụ của đạo đức học là đưa ra các hướng dẫn để giúp chúng ta đạt được mục tiêu đã được giả định trong lý tưởng hạnh phúc của mình, và giúp phân biệt giữa điều thiện và ác. Nhưng đạo đức học không thể cung cấp câu trả lời khách quan cho câu hỏi: “Tại sao ta phải chọn điều thiện?”. Cũng như thế, câu hỏi: “Tại sao ta phải sống đạo đức?” là câu hỏi nằm ngoài phạm vi của triết học đạo đức. Nó thuộc về lãnh vực thực tế và chỉ có ý nghĩa một khi chúng ta chấp nhận việc theo đuổi sự thiện hảo gắn liền với nổ lực tìm hạnh phúc cho đời mình.

2. Bản tính con người và tiêu chuẩn đạo đức

Đạo đức học là môn nghiên cứu về cách chúng ta phải sống hay chọn lựa sự thiện hảo như thế nào để đạt đến hạnh phúc. Nhiều người cho rằng sự thiện hảo cao cả nhất của con người là thể hiện tiềm năng và bản tính của mình cách trọn vẹn. Nhưng “bản tính con người” là gì? Và làm thế nào chúng ta thể hiện được bản tính ấy? Nếu con người là “con vật có lý trí” thì đạo đức là tận dụng lý trí để mang lại hạnh phúc cho mình. Hoặc, nếu bản tính con người là tìm kiếm sự sung mãn cho tất cả mọi người, thì đạo đức chính là đạt đến các điều vị lợi ấy. Như thế, việc bảo vệ và phát huy các “khuynh hướng tự nhiên” của bản tính con người là điều thiện hảo và đáng theo đuổi. Đây là cơ sở cho sự phát triển đạo đức học “luật tự nhiên” trong lịch sử.

Trong vở kịch “Antigone” của Sophocles, người hùng Antigone dùng qui luật cao thượng này để biện minh cho hành vi chôn cất xác người anh ruột, cho dù vua Creon đã cấm việc này vì người đó đã nổi loạn chống lại chính quyền thành Thebes. Hãy xem đoạn đối thoại sau đây:

– Vua Creon: Hãy nói cho ta biết, nhà ngươi có biết lệnh vua cấm làm việc này?

– Antigone: Lẽ dĩ nhiên tôi biết. Lệnh vua rất rõ ràng.

– Vua Creon: Nhưng nhà ngươi vẫn coi thường lệnh vua?

– Antigone: Đối với tôi, lệnh này không đến từ Thần Zeus, và cũng không do Thần Công Lý hay các vị thần dưới trướng của Thần Zeus ban ra. Hơn nữa, tôi không nghĩ rằng luật của nhà vua, trong thân phận là con người, lại có thẩm quyền cao hơn luật của Thần Minh đã có tự muôn đời, không bao giờ phai tàn. Giá trị của chúng vẫn tiếp tục hôm qua, hôm nay và mãi mãi, và không ai thật sự biết chúng đã bắt đầu từ thủa nào…

Lý luận của Antigone trên đây cho thấy từ thủa ban đầu của triết học, con người đã nhận ra lương tâm và lý trí là nền tảng tất yếu cho phán đoán đạo đức, căn bản hơn cả mọi qui luật tôn giáo hay luật pháp nhà nước. Lý trí nhận ra rắng trong lương tâm con người đã được khắc ghi một qui luật luân lý có từ đời đời và trên nền tảng này, con người có thể hiểu những gì là thiện hảo, e.g., những gì “tự nhiên đối với con người” như một chủ thể luân lý. Và như thế, triết Hy Lạp Cổ Đại đã khai triển một số mô hình đạo đức học nền tảng, rất quan trọng cho sự phát triển của triết học Tây Phương sau này.

Tuy nhiên, không phải mọi triết gia đều nghĩ rằng đạo đức học cần phải được xây dựng trên bản tính con người. Có thể họ cho rằng bản tính con người cơ bản là ích kỷ hoặc chưa hoàn toàn và đạo đức là khắc phục khuynh hướng vị kỷ tự nhiên đó. Có triết gia phủ nhận sự kiện có một bản tính chung của con người, do đó giá trị đạo đức cơ bản là thể hiện bản tính độc đáo riêng qua các chọn lựa tự do của mình. Cũng có giả thuyết cho rằng người khác phái không thể có chung bản tính, và như thế phụ nữ cần thể hiện bản tính mình cách độc lập và sáng tạo, không phải theo mô hình của phái nam. Trong khi chưa có sự thống nhất về định nghĩa của “bản tính con người” thì khó mà đạt đến một quan điểm chung về “luật tự nhiên”.

Trong thời Cận đại, đạo đức học đã chuyển mình từ một môn học về hạnh kiểm và tính cách đúng đắn dựa trên bản tính con người sang một khoa nghiên cứu về các hình thức hay nguyên tắc cần thiết cho việc đánh giá các hành vi đạo đức. Nhiều phạm trù đạo đức học mới đã được đưa ra như: hậu quả của hành vi (consequentialism), ý định của hành vi (intentionality), hình thức của hành vi (formal), bổn phận của chủ thể luân lý (deontology), và cuối cùng là nhân cách làm người (virtues ethics).

Trước tiên, thuyết “hậu quả” là khynh hướng đánh giá một hành động hay tính cách tùy theo khả năng chúng thăng tiến hay gây tổn hại đến hạnh phúc con người. Nhưng “ý định” cũng là yếu tố không kém quan trọng, vì một người có thể làm việc từ thiện mang lại nhiều hậu quả tốt cho người nghèo, nhưng với tham vọng chính trị hay ý đồ bất chính thì chưa chắc hành vi của họ sẽ được cho là cao thượng. Nếu cả hai khuynh hướng ở trên đều nhắm vào động lực và hậu quả của hành vi, thì khuynh hướng thứ ba nhắm đánh giá một hành vi dựa trên hình thức luân lý phổ quát đứng sau nó. Một hành động chỉ là đúng nếu nó là hành động mà ta có thể một cách hợp lý ước ao rằng mọi người trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện, và ta có bổn phận phải tuân thủ hình thức luân lý phổ quát này. Ví dụ, gian lận khi làm bài thi là sai vì hình thức luân lý của hành vi đó không thể phổ quát hóa được. Quan điểm cuối cùng cho rằng hành động tốt chỉ là cách diễn tả của một cá tính tốt đã được hình thành nơi tác nhân. Do đó, mục tiêu của đạo đức học là rèn luyện nhân cách thay vì cân nhắc về các khía cạnh của hành vi.

Ngoài các tiêu chuẩn đạo đức mới trên đây, môn đạo đức học cũng phải đương đầu với các thử thách khác. Trước nhất, nếu luân lý (morality) xuất phát từ thói quen (mores) của con người sống trong xã hội thì phán đoán đạo đức lại không thể hoàn toàn tuyệt đối hay hoàn toàn tương đối. Từ trường phái Ngụy biện cho đến Nietzsche, đã cho thấy giá trị đạo đức luôn luôn bao hàm yếu tố chủ quan. Do đó, làm sao ta có thể bênh vực cho tính khách quan của phán đoán đạo đức? Và cuối cùng, mọi suy tư và hành vi con người đều có nguồn gốc và bị chi phối bởi các yếu tố thể lý, tâm lý cá nhân hay bối cảnh xã hội. Nếu hành vi con người mang tính tiền định và không hoàn toàn tự do thì làm sao có thể có phán đoán đạo đức thật sự được? Đây là những vấn nạn mà môn đạo đức học cần phải giải quyết.

3. Đạo đức học và các môn khoa học khác

Xã hội học tiếp cận đạo đức học từ góc độ mô tả hay trình thuật. Họ đưa ra những giả thuyết phổ quát để giải thích hành vi và các chọn lựa của cá thể hay tập thể trong xã hội và dùng cách giải thích này để làm sáng tỏ quan điểm đạo đức của các cá thể hay tập thể đó. Nói chung, khoa xã hội học tránh đề nghị một hệ thống luân lý hay xử lý nào cho xã hội, nhưng nếu họ bước vào phạm vi này thì họ trở thành các triết gia đạo đức học.

Các nhà nghiên cứu giáo dục có thể tìm cách áp dụng các học thuyết đạo đức. Đôi khi họ phải đề nghị các giá trị đạo đức hoặc chọn lựa thuyết đạo đức nào thích hợp với quan điểm giáo dục của họ. Có những triết gia như Plato đã đi sâu hơn, khai triển về các chủ đề giáo dục đạo đức. Một nhà giáo dục sẽ cẩn thận cân nhắc về đạo đức siêu hình trước khi đi đến quyết định về các chọn lựa. Tuy nhiên, họ nghiên cứu về hậu quả và cách thức áp dụng của các học thuyết đạo đức chứ không phải về bản chất, ngôn ngữ hay cách lý luận của đạo đức học. Đó là vai trò của đạo đức siêu hình.

Thần học cũng khai thác các học thuyết đạo đức và hệ thống phán đoán luân lý cho thích ứng với bối cảnh và niềm tin và truyến thống tôn giáo. Tuy nhiên, lý luận đạo đức của họ thì dựa trên một lăng kính “mạc khải” nào đó đã được chấp nhận. Trong khi đó, đạo đức siêu hình thì chỉ dựa trên lý trí và phải nới rộng quan điểm của mình bao gồm một lãnh vực rộng rãi hơn là tôn giáo. Mục đích của đạo đức siêu hình là xác định tính nhất quán và hợp lý của các mô thức dùng trong lý luận đạo đức.

Các nhà làm luật, chính quyền và các nhân vật hữu trách cũng tra cứu mối tương quan phức tạp giữa đạo đức học và pháp luật. Nhưng luật pháp và đạo đức là hai lãnh vực khác nhau. Có những hành vi thường được xem là trái với đạo đức nhưng lại không phải là vi pháp (như cha mẹ nói dối với con cái). Hoặc ngược lại có hành vi phạm pháp nhưng là đúng hay tốt (như dùng xe không có giấy phép chở bệnh nhân đi cấp cứu). Vì lý do này, nhiều chính trị gia chống đối việc “luật hóa luân lý”, nhưng họ vẫn dùng đạo đức siêu hình để thiết lập nền tảng cho việc chú giải luật pháp hay bênh vực cho quan điểm của họ.

Sau khi sơ lược qua khái niệm đạo đức và các yếu tố căn bản trong truy vấn đạo đức, chúng ta nhận diện mối tương quan giữa nổ lực tìm hạnh phúc cho con người và sự phát triển của môn đạo đức học. Đạo đức học còn phải giải quyết các chủ đề khác như tính chủ quan và khách quan, tính tương đối và tuyệt đối, tự do và tất định trong phán đoán đạo đức, trước khi chúng ta có thể áp dụng các học thuyết đạo đức học đương thời vào những tình huống cụ thể.

 

Lm. Joseph Nguyễn Đoàn Tân, OFM. Catechesis.net