Đặc điểm cơ bản của hoạt động kiểm tra? Ý nghĩa của kiểm tra đối với quản lý nhà nước?
Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Kiểm tra là chức năng của mọi chủ thể quản lý, không phân biệt ở cấp nào trong bộ máy quản lý nói chung và trong bộ máy quản lý nhà nước nói riêng. Tuy nhiên là ở các cấp bậc khác nhau thì quy mô kiểm tra cũng khác nhau
Mục Lục
1. Khái niệm về hoạt động kiểm tra
Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Kiểm tra là chức năng của mọi chủ thể quản lý, không phân biệt ở cấp nào trong bộ máy quản lý nói chung và trong bộ máy quản lý nhà nước nói riêng. Tuy nhiên là ở các cấp bậc khác nhau thì quy mô kiểm tra cũng khác nhau và có những yêu cầu khác nhau. Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức nhất định, kiểm tra hướng tới việc xem xét tính hợp lý hay không hợp lý của một chương trình công tác đã vạch ra, khả năng thực hiện trong thực tế.
Cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật có định nghĩa cụ thể về kiểm tra, trên phương diện lý luận và thực tiễn thì kiểm tra là khái niệm rộng thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau.
Trước hết, về phương diện hoạt động: Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ chức chính tri – xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của chính mình. Qua kiểm tra các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng mực việc làm của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn.
Hai là, về phương diện quản lý nhà nước: Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với cấp dưới của mình nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc, vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các biện pháp như: Biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi phạm pháp luật. Ba là, về phương diện chính trị – xã hội: Kiểm tra là hoạt động của các cơ quan Đảng, các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tham gia hoạt động giám sát công việc hành chính nhà nước, theo phương diện này, kiểm tra hầu như không mang tính quyền lực nhà nước; không trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chỉ tác động đến hoạt động quản lý nhà nước bằng những biện pháp mang tính xã hội.
2. Khái quát về hoạt động kiểm tra
Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ chức chính tri – xã hội, tổ chức kinh tế… nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của chính mình. Qua kiểm tra nhằm đánh giá đúng mực việc làm của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn. Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với cấp dưới nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc, vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các biện pháp như: biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi phạm pháp luật.
Phạm vi hoạt động kiểm tra thường theo bề rộng, diễn ra liên tục, ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú, mang tính quần chúng. Phạm vi hoạt động thanh tra thường hẹp hơn và được giới hạn trong quyết định thanh tra đã được ký ban hành.
3. Khái quát hoạt động kiểm tra trong quản lý nhà nước
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, có mối quan hệ lôgíc trong mọi hình thái quản lý (cộng đồng, gia đình hoặc công quyền…). Tuy nhiên, trong không ít trường hợp, ý nghĩa và vai trò của hoạt động kiểm tra không được quan tâm bằng các hoạt động khác của quản lý nhà nước, như: xây dựng thể chế, tổ chức, nhân sự…, mặc dù trong khoa học quản lý nhà nước, không thể nói hoạt động (khâu) nào là quan trọng nhất. Bởi vì, quản lý nhà nước là một lĩnh vực chỉnh thể và có tính liên thông, thống nhất giữa các hình thức hoạt động, trong đó kiểm tra được coi là khâu cuối cùng tiệm cận kết quả của mọi hoạt động, mọi hình thái tổ chức.
Thực tế quản lý nhà nước trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn ra cho thấy, công tác kiểm tra đã bộc lộ không ít khiếm khuyết, bất cập. Chẳng hạn, quan hệ giữa ban hành với tổ chức thi hành thể chế; quan hệ giữa kế hoạch và thực thi trong thực tế; quan hệ chức năng giữa người ban hành quyết định quản lý với các cơ quan chuyên môn liên quan đến tình huống “cấp và kiểm tra giấy đi đường”. Đáng chú ý là qua kiểm tra trực tuyến, trực tiếp giữa cấp trên và cấp dưới cho thấy vẫn có những điểm chưa tốt (dù rất ít) trong năng lực nắm bắt và xử lý thực tiễn của một bộ phận công chức lãnh đạo, nhất là lãnh đạo địa phương… khiến Thủ tướng Chính phủ cũng băn khoăn: nghe báo cáo (về phòng, chống COVID-19) chỗ nào cũng tốt, nhưng kiểm tra mới biết chỗ nào tốt hay không tốt.
Thực tế đó cũng cho thấy, vẫn còn một bộ phận công chức coi công tác kiểm tra là yếu tố phụ, để “trả bài” trong các khóa bồi dưỡng, mà chưa nhận thức đó là khâu đặc biệt, thể hiện năng lực và bản lĩnh trong các báo cáo, giải trình, đề xuất sáng kiến trong những tình huống cụ thể của cấp dưới đối với cấp trên; những phát hiện, điều chỉnh sai lệch xuất hiện (như trong kế hoạch hay tổ chức thực thi công vụ) của cấp trên đối với cấp dưới.
Kiểm tra, hiểu theo nghĩa thông thường và trên cơ sở khoa học, là việc một chủ thể tác động tới đối tượng quản lý, xem xét lại những việc đã được chuẩn bị tổ chức thực hiện ở hầu hết các hoạt động trong chu trình của quản lý nhà nước. Quan điểm có tính phổ biến cho rằng, kiểm tra bao gồm tất cả các hoạt động mà nhà quản trị thực hiện nhằm đảm bảo chắc chắn rằng các kết quả thực tế sẽ đúng như kết quả dự kiến trong kế hoạch. Trong quản lý nói chung, khi có hoạt động thì phải có sự kiểm tra trước để bảo đảm thành công khi tổ chức thực hiện. Vì vậy, kiểm tra là nhiệm vụ rất quan trọng của người đứng đầu một bộ phận trong quản lý khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn (từ tổ trưởng, trưởng phòng, chủ tịch UBND cấp xã; cấp trung gian như vụ trưởng, giám đốc sở, chủ tịch UBND cấp huyện; cấp cao như chủ tịch UBND cấp tỉnh, bộ trưởng… đến vị trí cao nhất của Chính phủ là Thủ tướng). Do vậy, không thể có một hoạt động nào đó trong quản lý lại không có hoạt động kiểm tra trước khi tổ chức thực hiện.
4. Đặc điểm cơ bản của hoạt động kiểm tra
Trên phương diện lý thuyết, kiểm tra có những đặc điểm sau:
– Tính khách quan và chủ quan: tính khách quan là quy trình trong khoa học quản lý, ai tham gia hoạt động công vụ cũng phải tuân thủ. Tính chủ quan là chủ thể kiểm tra là con người, mà con người thì không giống nhau về năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm, chuyên môn, kỹ năng…
– Có ở tất cả các vị trí công vụ: bất kỳ vị trí trong nền công vụ nào cũng đều có chức năng tương tác với xã hội, phục vụ xã hội, mà đã là chức năng thì không thể bỏ qua. Hoạt động kiểm tra trong quản lý nhà nước không chỉ cho biết người lãnh đạo nào sâu sát công việc, hay có tính quan liêu; mà còn giúp sửa chữa những khiếm khuyết của hoạt động công vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ công tác kiểm tra là nhằm mục đích: “…biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”.
– Đa dạng về chủ thể và đối tượng kiểm tra: ở những nhóm vị trí công vụ khác nhau đều có chủ thể kiểm tra và đối tượng bị kiểm tra tương ứng (người đứng đầu, bộ phận giúp việc, công chức thực thi…). Trong công tác phòng, chống dịch bệnh (như dịch COVID-19), kiểm tra có ở hầu hết các hoạt động như xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định quản lý; mua, bán thuốc và phân phối, sử dụng thuốc; phối hợp và triển khai thu dung, điều trị bệnh nhân COVID-19…
– Kiểm tra rất cần thiết và quan trọng: vừa nhằm phát huy tính tích cực, vừa hạn chế những tiêu cực trong hành vi của con người nói chung và công chức nói riêng. Hành vi của con người bị chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan, như: nhận thức về trách nhiệm; tâm lý, tình cảm của người ra lệnh hoặc người phục tùng; sự nhạy bén hoặc chậm trễ, thiếu sáng tạo; tác phong thực dụng hoặc đề cao trách nhiệm trong công việc; đạo đức công vụ; thích ứng hoặc chậm thích ứng với sự thay đổi (như cơ chế, ứng dụng công nghệ..)…
– Quy trình kiểm tra mang tính bao quát, đa chiều. Bao gồm: kiểm tra theo hệ thống thứ bậc hành chính; kiểm tra theo chức năng khi chủ thể ngang bằng về vị thế, như giữa bộ với bộ, sở với sở; kiểm tra chéo để đo lường tính thống nhất hay không thống nhất khi các bộ phận cấu thành cùng triển khai một hoạt động nào đó (như các sở, vụ cùng chuyên môn…); tự kiểm tra. Mặt khác, công tác kiểm tra còn mang tính chất là loại hoạt động có tính tương tác tích cực.
– Có nhiều hình thái linh hoạt, sáng tạo: chủ thể kiểm tra thường tiến hành các loại hoạt động như: nghe báo cáo của cấp trên và giải trình của cấp dưới; đi thực tế ở cơ sở (ví dụ Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trực tiếp đi kiểm tra phòng, chống dịch COVID-19 tại một số địa bàn xã, phường). Hiện nay, thông qua ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại mà chủ thể kiểm tra có thể tương tác trực tuyến với đối tượng được kiểm tra, với cấp cơ sở (như Thủ tướng Phạm Minh Chính thiết lập phòng họp trực tuyến ngay tại Trụ sở Chính phủ để kiểm tra công tác phòng, chống dịch COVID-19 với các bộ, ngành, địa phương).
5. Ý nghĩa của kiểm tra đối với quản lý nhà nước và quản lý xã hội
Thứ nhất, giúp cho kết quả đầu ra của quản lý nhà nước đúng với mục đích, mục tiêu đặt ra ban đầu.
Thứ hai, có tác động mạnh mẽ đến phát huy tính tích cực và hạn chế các yếu tố không tích cực (chủ yếu là sự chi phối của yếu tố chủ quan) trong quản lý nhà nước để có biện pháp, giải pháp phù hợp.
Thứ ba, tạo hiệu ứng xã hội về kinh tế – xã hội, tác động đến ý thức của các chủ thể quản lý nhà nước, tác động đến quản lý xã hội (các đối tượng thực hiện nghĩa vụ hoặc thụ hưởng chính sách…). Việc thiếu kiểm tra, dự báo trong phòng, chống dịch COVID-19 vừa qua đã khiến cho hành vi quản lý từ mục đích “khơi thông” lại vô tình trở thành “điểm nghẽn”, lực cản, như gây đình trệ, đứt gãy các chuỗi cung ứng, sản xuất, lưu thông hàng hóa; chậm giải ngân hoặc giải ngân không đúng đối tượng thụ hưởng các gói an sinh xã hội…
Thứ tư, tạo ra những hiệu ứng gián tiếp của quản lý (là những tác động đến từ việc kiểm tra tới những tình huống gián tiếp của quản lý nhà nước). Ví dụ, kiểm tra công vụ để xem công chức có làm đúng chức phận, hoàn thành nhiệm vụ được giao hay không… Các hiệu ứng gián tiếp có thể bao gồm: sử dụng nguồn nhân lực; công tác tổ chức thực hiện có hiệu quả; phát huy vai trò của người đứng đầu; nâng cao chất lượng quy hoạch, sử dụng nguồn nhân lực quản lý nhà nước; kiểm nghiệm, đánh giá tương quan giữa điều kiện, tiêu chuẩn và năng lực xử lý, giải quyết các tình huống trong thực tiễn quản lý nhà nước…